Châm cứu phát triển ở Việt Nam đã từ rất lâu rồi, còn hiệp hội châm cứu Việt Nam ra đời từ đâu và phát triển ra sao? chúng ta hãy đi tìm hiểu vấn đề này nhé. Hội Châm Cứu Việt Nam được thành lập năm 1967, trong 41 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, đất nước ta đã có những bước tiến đặc biệt về mọi mặt trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó Châm cứu Việt Nam luôn phấn đấu trưởng thành mạnh mẽ. Vai trò của Hội châm cứu Việt Nam: - Thiết thực chăm sóc sức khỏe cho nhân dân Việt Nam, nhất là công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ta ở vùng sâu, vùng xa, những gia đình nghèo thuộc diện chính sách của xã hội. - Hội Châm cứu Việt Nam muốn góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển chung của Hội châm cứu trên thế giới. Trải qua thực tiễn với hàng ngàn năm lịch sử, tổ tiên ta từ đời này sang đời khác đã tích lũy một kho tàng kinh nghiệm phong phú trên lâm sàng, xây dựng được một lý luận đặc sắc của phương đông (giải thích được những biểu hiện sinh lý và hiện tượng bệnh lý của con người, gắn liền với học thuyết lâu đời của y học phương Đông như Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành, học thuyết Kinh Lạc, học thuyết Tạng Phủ, học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất...). Sự phát triển của hội châm cứu Việt Nam: Châm cứu Việt Nam có lịch sử lâu đời, từ thời đại các vua Hùng. Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, châm cứu chỉ là sự hành nghề tự phát của các lương y, chưa được nhà nước phong kiến chăm sóc, bảo trợ. Chỉ từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta mới có chủ trương, chính sách rõ ràng, kiên quyết khôi phục và phát huy nền y học cổ truyền dân tộc, trong đó có ngành châm cứu. Hội Đông y Việt Nam và, sau đó là Hội Châm cứu Việt Nam được thành lập. Chỉ qua gần nửa thế kỷ, một thời gian rất ngắn trong lịch sử nước nhà mấy nghìn năm, ngành châm cứu Việt Nam đã lớn mạnh vượt bậc. Hội Châm cứu Việt Nam hiện đã tập hợp được 27.800 hội viên ở 63 tỉnh, thành phố. Các nhà châm cứu Việt Nam, mà GS Nguyễn Tài Thu là gương mặt tiêu biểu, đã đạt được những thành công vang dội, được thế giới ngưỡng mộ, trong hai lĩnh vực đặc biệt: châm tê để mổ, và châm cứu chữa một số bệnh hiểm nghèo (như liệt nửa người, liệt toàn thân, câm, điếc, v.v.). Trong số hàng trăm nước trên thế giới có thực hành châm cứu, thì Việt Nam ta được Hiệp hội Châm cứu thể giới xếp vào số 5 nước có ngành châm cứu tiên tiến nhất (Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Pháp, và Malaysia). Hội châm cứu Việt nam họp thường kì 6 năm 1 lần. Đại Hội IV năm 1991: Hội Châm Cứu Việt Nam đã gia nhập Liên hiệp hội Châm cứu thế giới (WFAS), đánh dấu bước ngoặt lớn trong việc mở rộng quan hệ quốc tế. Đại hội V đã bầu BCH TƯ Hội khóa V gồm 81 vị, GS Nguyễn Tài Thu được bầu lại lần thứ 3 là Chủ tịch Hội. Sau Đại Hội V ngày 30/12/1997, Tổng Hội Y Dược Học Việt Nam ra quyết định 273/TH chấp thuận cho Hội Châm Cứu Việt Nam ra khỏi Tổng hội đánh dấu bước ngoặc vững vàng cho ngành Châm cứu Việt Nam đối với y học Việt Nam và thế giới. Ngày 18/01/1998, Ủy Ban TƯ Mặt Trận TQ Việt Nam ra quyết định số 30/MTTQW công nhận Hội Châm Cứu Việt Nam là thành viên chính thức của Mặt trận, GS. Nguyễn Tài Thu được bổ sung là Ủy Viên UBTW Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Ngày nay hội châm cứu Việt Nam đã và đang phấn đấu phát triển Châm cứu theo định hướng phối hợp giữa Y học cổ truyền và Y học hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc của dân tộc, phục vụ tốt hơn nữa, trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân. Các bạn có thể xem thêm bài viết: châm cứu là gì tại đây.
Châm cứu Việt Nam cũng có lịch sử phát triển lâu đời, cùng với quá trình kế thừa và phát triển của mình, châm cứu đã đem đến những kinh nghiệm, cách chữa bệnh vô cùng hiệu quả cho nhân loại. Châm cứu là phương pháp chữa bệnh được ra đời từ Trung Quốc, nó đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền y học của toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Châm cứu trong quá trình du nhập của mình đã để lại cả kho tàng những kiến thức và kinh nghiệm quý báu, điều đó được gọi chung với cái tên lịch sử châm cứu Việt Nam. Bài viết hôm nay sẽ đi tìm hiểu vấn đề này. Lịch sử phát triển châm cứu học: Châm cứu là một bộ phận trong di sản y học phương Đông do con người sáng lập và phát triển trong quá trình đấu tranh lâu dài với bệnh tật. Châm cứu được xem như là một phần của y học Trung Hoa được xây dựng và phát triển từ kinh nghiệm dân gian: trong quá trình lao động của người thượng cổ, con người phát hiện khi bị những viên đá nhỏ va chạm thì thấy giảm nhẹ đau đớn của bệnh tật vốn có trong cơ thể.Trải qua lâu ngày, trong mọi người hình thành khái niệm dùng Phiếm thạch chữa bệnh. Trải qua hàng trăm ngàn năm, con người đã tích lũy được rất nhiều thực nghiệm và kinh nghiệm chữa bệnh lâm sàng. Hiện nay khoa châm cứu đã được thế giới chú ý. Ở Pháp , Đức, Nhật, Đại Hàn, Trung Hoa… đều có thành lập các viện châm cứu, các y viện chuyên trị bệnh bằng khoa này, thu thập hàng ngàn luận án để tổng kết phổ biến kinh nghiệm và 3 năm có họp một lần, một tạp chí ra hàng tháng (R.I.A) được phát hành rộng rãi. Lịch sử châm cứu Việt Nam: Theo một số ghi chép còn lại cho thấy châm cứu học ở Việt Nam đã được sử dụng sớm nhất ở châu Á và trên thế giới: nó được phát triển lần đầu vào đời Hùng Vương (287 – 257 trước C. N), tiếp đến là đời vua Thục An Dương Vương (257 – 207 trước C.N); và châm cứu phát triển rực rỡ nhất vào đời vua Ngô, Đinh, Lê, Lý (937 – 1224 sau C.N): - Năm 1136 (sau C.N ) Minh Không Thiền sư (tục danh là Nguyễn Chí Thành ) đã dùng pháp ngữ nhà Phật và châm cứu chữa khỏi bệnh tính thần kinh cho vua Lý Thần Tông được phong là Lý Triều quốc Sư. - Đời nhà Trần, Trâu Canh đã dùng châm cứu chữa bệnh cứu sống con của vua Trần Minh Tông là hoàng tử HẠO sau khi lên ngôi là Trần Dụ Tông mắc bệnh liệt dương và Trâu Canh đã dùng châm cứu chữa khỏi. - Đời nhà Hồ (1401 – 1407 ) có y sư Nguyễn Đại Năng người xã Hiệp An, huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương đã soạn cuốn sách "Châm cứu tiệp hiệu diễn ca" bằng thơ Nôm để phổ biến rộng rãi phương pháp châm cứu trong nhân dân. Đặc biệt Nguyễn Đại Năng đã tìm ra một số huyệt mới chưa thấy ghi trong sách châm cứu của các nước trên thế giới. - Đến đời Hậu Lê (1423 – 1789) có đại danh y Hải Thượng Lãn Ông soạn bộ Y Tông Tâm Lĩnh trong đó cũng có hướng dẫn chữa một số bệnh bằng châm cứu. - Đời Tây Sơn dưới triều vua Quang Trung (1788 – 1802) nhà vua đã lệnh cho Thái y viện phát huy các hình thức chữa bệnh trong đó có ngành châm cứu. - Đến đời Nguyễn (1802 – đến đầu thế kỹ 20) có Vũ Bình Phủ hiệu là Nam Dương Đình giỏi về châm cứu đã biên soạn bộ sách “Y thư lược sao” tổng hợp về lý luận và thực tiễn châm cứu thời bấy giờ. Đây là tác phẩm viết về châm cứu thứ hai của nước Việt Nam ta . Năm 1885 thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, năm 1902 chúng mở trường đào tạo y sĩ và dược sỹ để phục vụ tầng lớp cai trị, từ đó nước ta có hai ngành Đông y và Tây y. Thực dân Pháp luôn tìm cách chèn ép y học cổ truyền trong đó có châm cứu, họ dần dần loại đông y ra khỏi tổ chức nhà nước, châm cứu từ đó mai một đi không phát triển nữa. Từ sau cách mạng tháng 8/1945 ở Việt Nam. Khoa châm cứu dần dần được cũng cố và phát triển rộng rãi. Ở miền Bắc ngành Đông y và châm cứu được phục hồi mạnh mẽ. Từ đó Hội Đông y Việt Nam rồi hội Châm Cứu Việt Nam và Viện Châm Cứu Việt Nam được thành lập cùng với bộ môn đông y trường đại học y khoa đã mở nhiều lớp để đào tạo thầy thuốc châm cứu phòng và chữa bệnh bằng châm cứu đang phát triển rộng rãi trên khắp nước ta. Đặc biệt có giáo sư bác sĩ Nguyễn Tài Thu đã áp dụng tài tình châm tê trong phẫu thuật. Có thể nói châm cứu ở Việt Nam có những thời khắc thăng trầm trong lịch sử, tuy nhiên cho đến ngày nay nó vẫn luôn được kế thừa truyền thống và tiếp tục phát huy những cái mới. Cho đến hôm nay và mai sau nữa, tôi tin chắc rằng lịch sử châm cứu Việt Nam sẽ lại được tiếp tục ghi dấu ấn trong nền y học dân tộc. Các bạn có thể xem thêm bài viết: Hội châm cứu Việt Nam tại đây.
Chứ có chồng mà chỉ ảnh hưởng xấu tới gia đình thì có giữ cũng chỉ chịu những năm tháng mệt mỏi, có khi còn ảnh hưởng con
Hội Châm Cứu Việt Nam được thành lập năm 1967, trong 41 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, đất nước ta đã có những bước tiến đặc biệt về mọi mặt trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó Châm cứu Việt Nam luôn phấn đấu trưởng thành mạnh mẽ.
Vai trò của Hội châm cứu Việt Nam:
- Thiết thực chăm sóc sức khỏe cho nhân dân Việt Nam, nhất là công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ta ở vùng sâu, vùng xa, những gia đình nghèo thuộc diện chính sách của xã hội.
- Hội Châm cứu Việt Nam muốn góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển chung của Hội châm cứu trên thế giới. Trải qua thực tiễn với hàng ngàn năm lịch sử, tổ tiên ta từ đời này sang đời khác đã tích lũy một kho tàng kinh nghiệm phong phú trên lâm sàng, xây dựng được một lý luận đặc sắc của phương đông (giải thích được những biểu hiện sinh lý và hiện tượng bệnh lý của con người, gắn liền với học thuyết lâu đời của y học phương Đông như Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành, học thuyết Kinh Lạc, học thuyết Tạng Phủ, học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất...).
Sự phát triển của hội châm cứu Việt Nam:
Châm cứu Việt Nam có lịch sử lâu đời, từ thời đại các vua Hùng. Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, châm cứu chỉ là sự hành nghề tự phát của các lương y, chưa được nhà nước phong kiến chăm sóc, bảo trợ.
Chỉ từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta mới có chủ trương, chính sách rõ ràng, kiên quyết khôi phục và phát huy nền y học cổ truyền dân tộc, trong đó có ngành châm cứu. Hội Đông y Việt Nam và, sau đó là Hội Châm cứu Việt Nam được thành lập.
Chỉ qua gần nửa thế kỷ, một thời gian rất ngắn trong lịch sử nước nhà mấy nghìn năm, ngành châm cứu Việt Nam đã lớn mạnh vượt bậc. Hội Châm cứu Việt Nam hiện đã tập hợp được 27.800 hội viên ở 63 tỉnh, thành phố.
Các nhà châm cứu Việt Nam, mà GS Nguyễn Tài Thu là gương mặt tiêu biểu, đã đạt được những thành công vang dội, được thế giới ngưỡng mộ, trong hai lĩnh vực đặc biệt: châm tê để mổ, và châm cứu chữa một số bệnh hiểm nghèo (như liệt nửa người, liệt toàn thân, câm, điếc, v.v.). Trong số hàng trăm nước trên thế giới có thực hành châm cứu, thì Việt Nam ta được Hiệp hội Châm cứu thể giới xếp vào số 5 nước có ngành châm cứu tiên tiến nhất (Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Pháp, và Malaysia).
Hội châm cứu Việt nam họp thường kì 6 năm 1 lần. Đại Hội IV năm 1991: Hội Châm Cứu Việt Nam đã gia nhập Liên hiệp hội Châm cứu thế giới (WFAS), đánh dấu bước ngoặt lớn trong việc mở rộng quan hệ quốc tế.
Đại hội V đã bầu BCH TƯ Hội khóa V gồm 81 vị, GS Nguyễn Tài Thu được bầu lại lần thứ 3 là Chủ tịch Hội. Sau Đại Hội V ngày 30/12/1997, Tổng Hội Y Dược Học Việt Nam ra quyết định 273/TH chấp thuận cho Hội Châm Cứu Việt Nam ra khỏi Tổng hội đánh dấu bước ngoặc vững vàng cho ngành Châm cứu Việt Nam đối với y học Việt Nam và thế giới.
Ngày 18/01/1998, Ủy Ban TƯ Mặt Trận TQ Việt Nam ra quyết định số 30/MTTQW công nhận Hội Châm Cứu Việt Nam là thành viên chính thức của Mặt trận, GS. Nguyễn Tài Thu được bổ sung là Ủy Viên UBTW Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Ngày nay hội châm cứu Việt Nam đã và đang phấn đấu phát triển Châm cứu theo định hướng phối hợp giữa Y học cổ truyền và Y học hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc của dân tộc, phục vụ tốt hơn nữa, trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Các bạn có thể xem thêm bài viết: châm cứu là gì tại đây.
Châm cứu là phương pháp chữa bệnh được ra đời từ Trung Quốc, nó đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền y học của toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Châm cứu trong quá trình du nhập của mình đã để lại cả kho tàng những kiến thức và kinh nghiệm quý báu, điều đó được gọi chung với cái tên lịch sử châm cứu Việt Nam. Bài viết hôm nay sẽ đi tìm hiểu vấn đề này.
Lịch sử phát triển châm cứu học:
Châm cứu là một bộ phận trong di sản y học phương Đông do con người sáng lập và phát triển trong quá trình đấu tranh lâu dài với bệnh tật. Châm cứu được xem như là một phần của y học Trung Hoa được xây dựng và phát triển từ kinh nghiệm dân gian: trong quá trình lao động của người thượng cổ, con người phát hiện khi bị những viên đá nhỏ va chạm thì thấy giảm nhẹ đau đớn của bệnh tật vốn có trong cơ thể.Trải qua lâu ngày, trong mọi người hình thành khái niệm dùng Phiếm thạch chữa bệnh. Trải qua hàng trăm ngàn năm, con người đã tích lũy được rất nhiều thực nghiệm và kinh nghiệm chữa bệnh lâm sàng.
Hiện nay khoa châm cứu đã được thế giới chú ý. Ở Pháp , Đức, Nhật, Đại Hàn, Trung Hoa… đều có thành lập các viện châm cứu, các y viện chuyên trị bệnh bằng khoa này, thu thập hàng ngàn luận án để tổng kết phổ biến kinh nghiệm và 3 năm có họp một lần, một tạp chí ra hàng tháng (R.I.A) được phát hành rộng rãi.
Lịch sử châm cứu Việt Nam:
Theo một số ghi chép còn lại cho thấy châm cứu học ở Việt Nam đã được sử dụng sớm nhất ở châu Á và trên thế giới: nó được phát triển lần đầu vào đời Hùng Vương (287 – 257 trước C. N), tiếp đến là đời vua Thục An Dương Vương (257 – 207 trước C.N); và châm cứu phát triển rực rỡ nhất vào đời vua Ngô, Đinh, Lê, Lý (937 – 1224 sau C.N):
- Năm 1136 (sau C.N ) Minh Không Thiền sư (tục danh là Nguyễn Chí Thành ) đã dùng pháp ngữ nhà Phật và châm cứu chữa khỏi bệnh tính thần kinh cho vua Lý Thần Tông được phong là Lý Triều quốc Sư.
- Đời nhà Trần, Trâu Canh đã dùng châm cứu chữa bệnh cứu sống con của vua Trần Minh Tông là hoàng tử HẠO sau khi lên ngôi là Trần Dụ Tông mắc bệnh liệt dương và Trâu Canh đã dùng châm cứu chữa khỏi.
- Đời nhà Hồ (1401 – 1407 ) có y sư Nguyễn Đại Năng người xã Hiệp An, huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dương đã soạn cuốn sách "Châm cứu tiệp hiệu diễn ca" bằng thơ Nôm để phổ biến rộng rãi phương pháp châm cứu trong nhân dân. Đặc biệt Nguyễn Đại Năng đã tìm ra một số huyệt mới chưa thấy ghi trong sách châm cứu của các nước trên thế giới.
- Đến đời Hậu Lê (1423 – 1789) có đại danh y Hải Thượng Lãn Ông soạn bộ Y Tông Tâm Lĩnh trong đó cũng có hướng dẫn chữa một số bệnh bằng châm cứu.
- Đời Tây Sơn dưới triều vua Quang Trung (1788 – 1802) nhà vua đã lệnh cho Thái y viện phát huy các hình thức chữa bệnh trong đó có ngành châm cứu.
- Đến đời Nguyễn (1802 – đến đầu thế kỹ 20) có Vũ Bình Phủ hiệu là Nam Dương Đình giỏi về châm cứu đã biên soạn bộ sách “Y thư lược sao” tổng hợp về lý luận và thực tiễn châm cứu thời bấy giờ. Đây là tác phẩm viết về châm cứu thứ hai của nước Việt Nam ta .
Năm 1885 thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, năm 1902 chúng mở trường đào tạo y sĩ và dược sỹ để phục vụ tầng lớp cai trị, từ đó nước ta có hai ngành Đông y và Tây y. Thực dân Pháp luôn tìm cách chèn ép y học cổ truyền trong đó có châm cứu, họ dần dần loại đông y ra khỏi tổ chức nhà nước, châm cứu từ đó mai một đi không phát triển nữa.
Từ sau cách mạng tháng 8/1945 ở Việt Nam. Khoa châm cứu dần dần được cũng cố và phát triển rộng rãi. Ở miền Bắc ngành Đông y và châm cứu được phục hồi mạnh mẽ. Từ đó Hội Đông y Việt Nam rồi hội Châm Cứu Việt Nam và Viện Châm Cứu Việt Nam được thành lập cùng với bộ môn đông y trường đại học y khoa đã mở nhiều lớp để đào tạo thầy thuốc châm cứu phòng và chữa bệnh bằng châm cứu đang phát triển rộng rãi trên khắp nước ta. Đặc biệt có giáo sư bác sĩ Nguyễn Tài Thu đã áp dụng tài tình châm tê trong phẫu thuật.
Có thể nói châm cứu ở Việt Nam có những thời khắc thăng trầm trong lịch sử, tuy nhiên cho đến ngày nay nó vẫn luôn được kế thừa truyền thống và tiếp tục phát huy những cái mới. Cho đến hôm nay và mai sau nữa, tôi tin chắc rằng lịch sử châm cứu Việt Nam sẽ lại được tiếp tục ghi dấu ấn trong nền y học dân tộc.
Các bạn có thể xem thêm bài viết: Hội châm cứu Việt Nam tại đây.