Tourist, Business, Transit, Crew Member, Student, Exchange Visitor, and Journalist visas $140 $160
Petition-Based visas (H, L, O, P, Q, and R) $150 $190
Treaty Investor and Trader visas (E) $390 $270
Fiancé(e) visas (K) $350 $240
Border Crossing Cards (age 15 and older) $140 $160
Border Crossing Cards (under age 15) $14 $15
Because of a reallocation of costs associated with immigrant visas, all categories of immigrant visa processing fees will decrease. Immigrant Visa Processing Fees Type of Visa Previous Fee New Fee
Immediate Relative and Family Preference Applications $330 $230
Employment-Based Applications $720 $405
Other Immigrant Visa Applications $305 $220
Diversity Visa Program Fee $440 $330
Determining Returning Resident Status $380 $275
The proposed fees were published in the Federal Register today, and will take effect in 15 days. To view the interim final rule, visit www.regulations.gov. Comments will be accepted until 60 days after publication. At that time, the Department will consider the public comments, and the published final rule will include the Department’s response to any comments received.
Riêng đối với visa EB-3 hiện nay thì khả năng xin được là vô cùng thấp. Công ty tư vấn không giải thích rõ cho các bạn là diện này ở Mỹ có "cap" (hạn ngạch) hàng năm. Trước khi chuyển thành thẻ xanh thì phải có visa làm việc (H1B hoặc L1) cái đã. Để có H1B thì phải có công ty Mỹ nhận vào làm và phải chứng minh là không có lao động Mỹ đủ điều kiện để làm công việc đó nên mới phải thuê người nước ngoài. Ngoài ra hàng năm chính phủ Mỹ chỉ dành 65,000 visa H1B thôi, có 20,000 visa bổ sung (cap exempt) dành cho những người có bằng master trở lên do các trường đại học của Mỹ cấp. Tuy nhiên tổng cộng thì cũng chỉ được 85,000 visa cho diện này trong khi vài năm trở lại đây thì số hồ sơ nộp ngay trong mấy ngày đầu Sở Di Trú cho phép nộp hồ sơ đã gấp 3 lần rồi nên toàn phải bốc thăm để chọn. Vì thế ngoài việc có đủ điều kiện để nộp đơn hay không còn có yếu tố may rủi nữa.
http://www.law360.com/immigration/articles/642523?nl_pk=554246aa-a0c6-4ae4-9945-25a10e2c217d&utm_source=newsletter&utm_medium=email&utm_campaign=immigration
Xem bài ở link trên để thấy là tình hình H1B căng như thế nào. Không phải nộp lúc nào cũng được mà phải nộp vào đầu tháng 4 hàng năm để bắt đầu được ký hợp đồng lao động làm việc vào tháng 10 (do năm tài chính của Mỹ bắt đầu từ 1/10 và luật di trú cho phép người sử dụng lao động được nộp hồ sơ không sớm hơn 6 tháng trước khi bắt đầu thời hạn của hợp đồng lao động).
Nếu dùng visa L1 (intra company tranferee) thì không bị "cap" như H1B và nộp lúc nào cũng được. Tuy nhiên diện này chỉ dùng cho một số đối tượng rất hạn chế: nhân viên quản lý (L1A) hoặc có kỹ năng đặc biệt (L1B) của công ty liên kết ở nước ngoài được cử sang công ty sponsor ở Mỹ. Thời điểm hiện nay thì hồ sơ L1 bị từ chối tỉ lệ rất cao do nhiều công ty lạm dụng L1 với mục đích định cư chứ không phải là với mục đích do công việc thực sự cần thiết phải cử nhân viên từ nước ngoài sang làm tại Mỹ.
http://www.insidecounsel.com/2015/09/08/united-states-citizenship-and-immigration-service
Để có visa làm việc theo 2 diện trên thì công ty sponsor ở Mỹ (employer) phải làm đơn I-129 gửi Sở Di Trú. Sau đó nếu được approve thì người lao động sẽ tiến hành xin visa tại lãnh sự quán ở nước của họ.
Ngay cả khi đã có H1B hay L1 sang Mỹ rồi thì 2 diện visa này cũng chỉ có thời hạn ngắn (3 năm và được gia hạn thêm 1 lần nữa nên tối đa là 6 năm thôi). Trong thời gian đó nếu đủ điều kiện thì công ty sponsor phải nộp tiếp I-140 để xin bảo lãnh sang thẻ xanh cho người lao động. Yêu cầu là phải chứng minh công việc đó không thể tìm được người lao động ở Mỹ thay thế và cần thiết phải duy trì nên mới cần người lao động từ nước ngoài được làm lâu dài vĩnh viễn. Ngoài ra công ty phải chứng minh đủ điều kiện tài chính để duy trì công việc và trả lương cho người lao động tối thiểu theo mức prevailing wage (mức lương này có nhiều bậc khác nhau tùy theo ngành nghề, mức độ yêu cầu và tùy theo location của công ty nhưng không hề rẻ chút nào). Vì vậy trừ các công ty lớn có thật lực về tài chính và có nhu cầu lao động thật thì họ mới làm I-140. Còn nếu chỉ để lấy tiền của người lao động để làm thẻ xanh cho họ định cư thì luật hoàn toàn cấm và coi là fraud. Các chi phí để xin chuyển sang thẻ xanh cũng phải do employer chi trả, kể cả phí luật sư. Thành ra các trường hợp mà thu tiền từ employee nếu Sở Di Trú phát hiện ra thì sẽ bị từ chối và coi là fraud.
Nói thì rất dài, nhưng các bạn nên tỉnh táo và có hiểu biết nhất định để tránh bị tiền mất tật mang.
Đối với các trường hợp định cư theo diện thân nhân (family-based) thì có thể tự làm hoặc thuê dịch vụ ở VN chuẩn bị giúp hồ sơ. Còn một khi đã là Employment-based (EB visa) thì thường là phức tạp và luôn luôn cần có luật sư được công nhận ở Mỹ tư vấn đầy đủ và làm đại diện với sở di trú thì mới hy vọng có kết quả tốt được. Những cá nhân hay công ty tư vấn không phải là luật sư có chứng chỉ hành nghề tại Mỹ thì nên tránh xa.
Theo luật Mỹ thì những đối tượng không phải là luật sư được phép hành nghề mà đưa ra tư vấn luật để thu tiền sẽ bị coi là hành nghề luật trái phép (unauthorized practice of law) và bị khởi tố. Thực tế thì nhiều cá nhân và tổ chức vẫn làm tư vấn về di trú do khách hàng của họ rất ít người biết về quy định này. Gần đây Tổng chưởng lý bang New York đã khởi tố và đóng cửa một cơ sở tư vấn chui như vậy.
http://www.ag.ny.gov/press-release/ag-schneiderman-announces-agreement-permanently-shuts-down-entertainment-visa
Ngoài ra trên website của Sở Di Trú Mỹ cũng có riêng một trang để lưu ý mọi người nên tránh những cơ sở tư vấn về di trú không được phép như thế này.
http://www.uscis.gov/avoid-scams
Nếu ai cần tư vấn về di trú thì nên contact trực tiếp với luật sư về di trú của Mỹ để được tư vấn và bảo vệ quyền lợi. Luật sư bên này phải trải qua thi tuyển sát hạch, có ràng buộc về đạo đức nghề nghiệp nên làm việc trực tiếp với họ sẽ bảo đảm hơn là thông qua các công ty tư vấn di trú ở VN (phần lớn là làm môi giới, ăn hoa hồng là chính) để tránh bị lừa đảo.