Nước Mỹ cũng không phải là thiên đường đâu các bạn ạ. Mình đọc được bài này của một người Mỹ và muốn chia sẻ với các bạn. Nước Mỹ: Sự thật tàn nhẫn Tác giả: Lance Freeman Nguồn: Information Clearing House Nguồn dịch: Blog Nhân Chủ Người dân Mỹ, tôi có vài tin xấu cho bạn: Bạn có phẩm chất đời sống tồi nhất trong các nước tiên tiến - tệ hại vượt xa các nước khác. Nếu bạn biết rằng người ta thật sự sống ra sao tại các nước Tây Âu, Úc, New Zealand, Canada và ở nhiều vùng của Á châu, bạn sẽ nổi loạn, xuống đường đòi một cuộc sống khá hơn. Thật vậy, một tài xế tắc xi trung bình của Úc hay Singapore có mức sống khá hơn một nhân viên văn phòng tiêu biểu ở Mỹ. Tôi biết điều này vì tôi là người Mỹ, và tôi đã bỏ trốn từ cái nhà tù mà bạn gọi là quê nhà. Tôi đã sống vòng quanh thế giới, tại các nước giàu và nghèo, và chỉ có một nước duy nhất tôi không bao giờ muốn về sống trở lại: đó là Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Chỉ mới nghĩ về nó thôi đã làm tôi tràn ngập nỗi kinh sợ. Hãy suy nghĩ về điều này: Bạn, người dân Mỹ, là dân tộc duy nhất trong các nước phát triển không có hệ thống bảo hiểm y tế chung cho mọi người. Tất cả mọi người tại Tây Âu, Nhật Bản, Canada, Úc, Singapre và New Zealand có hệ thống chung duy nhất. Nếu họ bị bệnh, họ có thể tập trung hết năng lượng để bình phục. Nếu bạn mắc bệnh, bạn phải chống đỡ với hai thứ cùng lúc: bệnh tình của bạn và nỗi lo sợ bị phá sản. Hàng triệu người Mỹ phá sản mỗi năm vì phí tổn y tế, và hàng chục ngàn người chết hằng năm vì họ không có bảo hiểm hay bảo hiểm không đủ. Và đừng tin một giây phút nào cái thứ tuyên truyền rác rưởi rằng nước Mỹ có hệ thống y tế tốt nhất và danh sách đợi ngắn nhất: Tôi từng tới bệnh viện ở Úc, New Zealand, Âu Châu, Singapore, và Thái Lan, và tất cả mọi bệnh viện đều hơn cái bệnh viện “tốt” mà tôi thường đi khi còn ở Mỹ. Danh sách đợi ngắn hơn, cơ sở tiện nghi hơn, và các bác sĩ cũng giỏi ngang bằng. Đây là điều mỉa mai, vì bạn là những người cần hệ thống y tế tốt hơn bất kỳ ai khác trên thế giới. Tại sao vậy? Vì lối sống Mỹ của bạn gần như được thiết kế để làm bạn bị bệnh. Hãy bắt đầu với chế độ ăn của bạn: Phần lớn thịt bò bạn ăn đã bị nhiễm bẩn trong quá trình chế xuất. Gà của bạn bị nhiễm vi khuẩn salmonella. Gia súc và gia cầm của bạn bị tiêm đầy hormone tăng trưởng và thuốc kháng sinh. Tại hầu hết các nước khác, chính quyền sẽ hành động để bảo vệ người tiêu dùng khỏi những thứ này; tại Mỹ, chính quyền bị mua đứt bởi giới kỹ nghệ để ngăn cản bất cứ luật lệ hay sự thanh tra hiệu quả nào. Trong vài năm nữa, phần lớn các sản phẩm rau quả bán ra trên thị trường Mỹ sẽ được biến chế từ các nông sản biến đổi gen, do mối quan hệ khăng khít giữa tập đoàn Monsanto và chính quyền Mỹ. Tệ hại hơn nữa, do lượng si-rô bắp nhiều fructose (high fructose corn syrup) khổng lồ mà dân Mỹ tiêu thụ, một phần ba số trẻ em sinh ra ở Mỹ ngày nay sẽ mắc bệnh tiểu đường loại 2 vào một thời điểm nào đó trong đời của chúng. Dĩ nhiên, không chỉ thực phẩm đang giết bạn, mà còn các loại thuốc nữa. Nếu bạn có chút sinh khí nào khi bạn còn bé, họ sẽ cho bạn Ritalin. Và rồi, khi bạn đủ lớn cả để nhìn xung quanh, bạn sẽ bị trầm cảm nên họ sẽ cho bạn Prozac. Nếu bạn là đàn ông, điều này sẽ khiến bạn bất lực vì các hóa chất, nên bạn sẽ cần Viagra để cương lên. Trong khi đó, chế độ ăn đều đặn đầy dầu hydro hóa (trans fat) bảo đảm cho bạn nồng độ cholesterol cao trong máu, nên bạn sẽ cần đơn thuốc cho Lipitor. Cuối cùng, vào cuối ngày, bạn sẽ nằm thao thức cả đêm lo lắng về việc mất bảo hiểm y tế, nên bạn sẽ cần Lunesta để ngủ. Với chế độ ăn bảo đảm làm bạn bị bệnh và một hệ thống y tế thiết kế để bạn cứ duy trì tình trạng như vậy, cái bạn thực sự cần là một kỳ nghỉ dài đâu đó. Xui xẻo thay, bạn không thể có nó. Tôi sẽ bật mí cho bạn một bí mật nho nhỏ: nếu bạn đi biển ở Thái Lan, núi ở Nepal hay bờ san hô ở Úc, bạn có lẽ sẽ là người Mỹ duy nhất trong tầm nhìn. Và bạn sẽ được vây quanh bởi đám đông người Đức, Pháp, Ý, Israel, Bắc Âu và dân Á Châu sung túc. Tại sao vậy? Vì họ được trả lương đầy đủ để có thể thăm viếng các nơi này VÀ họ có thể lấy đủ ngày phép để làm vậy. Cho dù nếu bạn có thể dành dụm đủ tiền để đi đến một trong những nơi chốn đẹp không tả nổi này, đến khi bạn vừa tỉnh cơn say máy bay là đến giờ leo lên máy bay và hối hả lao về lại với công việc của bạn. Nếu bạn nghĩ tôi dựng lên chuyện này, hãy kiểm chứng với thống kê về số ngày nghỉ thường niên trung bình theo quốc gia: Phần Lan: 44 Ý: 42 Pháp: 39 Đức: 35 Anh: 25 Nhật Bản: 18 Mỹ: 12 Sự thật là bọn chúng hành bạn như chó ở Mỹ. Điều này không có gì ngạc nhiên: nước Mỹ chưa bao giờ rời bỏ mô hình lao động đồn điền/công xưởng và bất cứ phong trào lao động thật sự nào đều bị đàn áp dã man. Trừ phi bạn thuộc về tầng lớp ông chủ, sự chọn lựa của bạn chỉ giới hạn trong việc sống sót với đồng lương ít ỏi trong ngành dịch vụ hay chơi trò “dành ghế” để có một góc bàn trong văn phòng (cái vị trí mà đằng nào trong tuần tới cũng sẽ được chuyển giao qua Ấn Độ). Điều khá nhất mà bạn có thể hy vọng là kiếm được một bằng cấp chuyên môn và rồi cố gắng chen vào tầng lớp trung lưu. Và kể cả những người bấu víu vào được giới trung lưu cũng chỉ cách xa sự nghèo khó trong đường tơ kẽ tóc của một cơn bạo bệnh hay thất nghiệp. Công việc của bạn không bảo đảm. Công ty của bạn không có lòng lo lắng cho bạn. Họ cài bạn vào thế chống lại các đồng nghiệp chừng nào điều đó phù hợp với họ, rồi sau đó họ tống cổ bạn đi. Dĩ nhiên, bạn không có sự lựa chọn nào khác: hệ thống đã được thiết kế ra như vậy. Ở hầu hết các nước tiên tiến, giáo dục đại học là miễn phí hoặc được tài trợ phần lớn. Nhưng tại nước Mỹ, một bằng đại học có thể làm bạn nợ tới 100 ngàn đô-la. Như vậy, bạn bước vào thế giới việc làm với món nợ nặng trĩu. Hãy quên đi việc nghỉ một năm để đi vòng quanh thế giới và tìm hiểu chính mình - bạn phải bắt đầu làm việc hay là nhìn chỉ số tín dụng của bạn lao xuống dốc. Nếu bạn “may mắn”, bạn thậm chí có thể kiếm được một công việc đủ tốt để giúp bạn đạt tiêu chuẩn vay tiền mua nhà. Và rồi bạn sẽ xài phân nửa cuộc đời làm việc của bạn chỉ để trả tiền lời trên món nợ đó. Chúc mừng bạn đã tới thế giới nô lệ thông qua nợ nần của Mỹ. Nước Mỹ có ảo tưởng về sự giàu có vĩ đại vì có thật nhiều “hàng hóa” xung quanh, nhưng thật ra ai sở hữu nó? Trên thực tế, người Mỹ trung bình nghèo hơn người dân xóm ổ chuột nghèo nhất tại Manila, vì ít ra họ không có nợ nần. Nếu họ muốn thu vén và dọn đi, họ có thể làm được; nhưng nếu bạn muốn dọn đi, bạn không thể làm được, vì bạn còn phải trả nợ. Tất cả những điều này dẫn tới câu hỏi: Tại sao có ai lại chịu đựng những thứ đó? Hỏi bất kỳ người Mỹ nào và bạn sẽ có được cùng câu trả lời: vì nước Mỹ là nước tự do nhất trên trái đất. Nếu bạn tin điều này thì tôi có thêm nhiều tin xấu cho bạn: Mỹ thực ra nằm trong những nước ít tự do nhất trên thế giới. Nước tiểu bạn bị kiểm tra, email và điện thoại của bạn bị theo dõi, hồ sơ y tế riêng tư của bạn bị giám sát, và lúc nào bạn cũng có thể quằn quại trên mặt đất vì bị chích 2 mũi roi điện Taser vào mông do lỡ mồm nói gì đó không đúng chỗ. Và đó mới chỉ là tự do về thể xác. Về tinh thần, bạn thật sự bị cầm tù. Bạn thậm chí không biết mức độ bạn bị dày vò bởi nỗi sợ phá sản do ốm đau, mất việc, vô gia cư và tội ác bạo lực vì bạn chưa từng sống trong một nước nơi không cần thiết phải lo lắng về những chuyện như vậy. Nhưng nó đi sâu hơn việc bị giám sát và lo lắng nhiều. Sự thật là, bạn không tự do vì đất nước của bạn đã bị sang đoạt và chiếm đóng bởi một chính quyền khác. Đến 70% tiền thuế của bạn chạy tới Lầu Năm Góc, và Lầu Năm Góc là chính quyền thật sự của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Bạn buộc phải trả thuế cho chính quyền chiếm đóng này hoặc là chết. Nếu bạn từ các tầng lớp kém may mắn, bạn còn phải phục vụ và chết trong các cuộc chiến tranh vô tận của chúng, hay gửi con cái của bạn để làm việc đó. Bạn không có sự lựa chọn trong chuyện này: một hệ thống quân dịch dựa trên các yếu tố kinh tế-xã hội tại Mỹ cung cấp nguồn bia đỡ đạn đều đặn cho quân đội. Nếu bạn gọi một cuộc sống dưới sự giám sát, trong lo lắng và lao động không ngừng phục vụ một chính quyền bạn không bầu lên là "tự do," thì bạn và tôi có ý niệm rất khác nhau về chữ "tự do" đó có nghĩa là gì. Nếu có chút cơ may là đất nước này thay đổi thì có lẽ còn có lý do để hy vọng. Nhưng liệu bạn có thể nhìn chung quanh một cách thành thật và kết luận rằng có điều gì sẽ thay đổi không? Thay đổi sẽ đến từ đâu? Dân chúng? Hãy nhìn kỹ các đồng hương của bạn: dân lao động ở Mỹ bị nhồi sọ một cách tàn bạo bởi lũ chó hoang như Rush Limbaugh, Bill O’Reilly và Sean Hannity. Các thành viên của giới lao động được dạy liếm gót giày chủ nhân và cúi xuống để bị đá vào mông cái nữa. Bọn chúng đã huấn luyện những người này thuần thục đến nỗi họ sẵn sàng cầm vũ khí chống lại một nửa còn lại của giới lao động ngay khi chủ nhân của họ ra lệnh. Nếu dân chúng không thể thực thi việc thay đổi, còn giới truyền thông thì sao? Không có cơ may nào. Từ đài Fox News cho tới báo NewYork Times, truyền thông đại chúng ở Mỹ không là cái gì khác hơn là bộ phận quan hệ công chúng của các tập đoàn cai trị, chủ yếu là hệ thống công nghiệp quân sự. Ít nhất, dân chúng Liên Xô cũ biết rằng tin tức của họ sánh ngang với phân bò. Tại Mỹ, bạn lớn lên nghĩ rằng bạn có một nền truyền thông tự do, điều đó làm sự tuyên truyền hữu hiệu gấp bội. Nếu bạn không nghĩ giới truyền thông Mỹ chỉ đơn thuần là tuyên truyền doanh nghiệp, hãy tự hỏi câu hỏi sau đây: Bạn có bao giờ nghe một công ty truyền thông lớn của Mỹ đăng tải đề nghị là nước Mỹ có thể chi tiêu cho hệ thống bảo hiểm toàn dân bằng việc cắt giảm chi tiêu quân sự? Nếu thay đổi không đến từ dân chúng hay giới truyền thông, tiềm lực thay đổi còn lại chỉ là giới chính trị. Bất hạnh thay, tiến trình chính trị Mỹ là một trong những nền chính trị thối nát nhất trên thế giới. Trong mỗi nước trên trái đất, người ta biết trước các chính trị gia ăn hối lộ từ giới giàu có. Nhưng thường thì chuyện này xảy ra bí mật, sau lằn cửa khép của các hội quán ưu tú của họ. Tại Mỹ, chuyện hối lộ chính trị kiểu này diễn ra ban ngày ban mặt, như một phần của cách hành xử hợp pháp, tiêu chuẩn và được chấp nhận. Tại Mỹ, họ chỉ gọi các món hối lộ này là đóng góp chiến dịch tranh cử, ủy ban vận động chính trị và vận động hành lang. Người ta không thể hy vọng các chính trị gia thay đổi hệ thống này hơn là hy vọng một người lấy cái rìu và tự đốn chân mình từ dưới. Không, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không thể thay đổi thành tốt hơn. Sự thay đổi duy nhất là thành tệ hơn. Và khi tôi nói tệ hơn, tôi muốn nói là tệ hơn nhiều. Khi chúng ta đang nói chuyện thế này thì hệ thống kinh tế đã duy trì đất nước này từ thời hậu chiến đang sụp đổ. Nước Mỹ đã xài hết “thẻ tín dụng” vào năm 2008 và bây giờ, các chủ nợ, bắt đầu với Trung Quốc, đang trong quá trình đặt nền móng cho một hệ thống tiền tệ mới thay thế hệ thống “đồng đôla dầu mỏ” của Anh-Mỹ. Đến khi có một bản vị vững vàng thay thế đồng đôla Mỹ, đồng đô xanh sẽ chìm nghỉm như hòn đá. Trong khi nước Mỹ đang chất chồng nợ nần, nó cũng lại bận rộn đưa các công việc sản xuất và văn phòng ra nước ngoài, và để hạ tầng cơ sở của nó nát bấy. Cùng lúc đó, các quốc gia Á Châu và Âu châu đang đầu tư vào giáo dục, hạ tầng và nguyên liệu. Cho dù Hoa Kỳ cố gắng xây dựng lại một nền kinh tế thật sự (chứ không phải một nền kinh tế tài chính/dịch vụ) bạn có nghĩ rằng công nhân Mỹ sẽ còn bao giờ có thể cạnh tranh với công nhân Trung Quốc hay Âu Châu? Bạn đã có bao giờ nhìn thấy một nhà máy Nhật bản hay Đức quốc chưa? Bạn có bao giờ gặp một công nhân Singapore hay Trung quốc chưa? Chỉ có hai lựa chọn tương lai đối mặt nước Mỹ, và không có cái nào đẹp đẽ cả. Trường hợp tốt nhất là một sự tuột dốc chậm chạp nhưng có trật tự - về cơ bản là sự tiếp nối của những gì đang xảy ra trong hai thập niên qua. Mức lương sẽ xuống, thất nghiệp sẽ lên, bảo hiềm y tế cho người già và nghèo khó cùng quyền lợi An sinh Xã hội sẽ bị cắt, đồng tiền sẽ mất giá, và sự cách biệt giàu nghèo sẽ bung ra ngoài vòng kiểm soát cho tới khi Mỹ bắt đầu trở nên giống như Mexico hay Philippines - những hòn đảo tí hon của sự giàu có vây quanh bởi đại dương nghèo khó (đất nước Mỹ đã đi được nửa đường tới đó rồi). Khả năng tương đương còn lại là một sự sụp đổ bất thần, có lẽ xảy đến khi các nước chủ nợ như Trung quốc, Nhật bản, Hàn quốc và các quốc gia dầu hỏa Opec bán tống bán tháo đôla Mỹ. Một khả năng liên quan là việc chính phủ Mỹ vỡ nợ với số nợ khổng lồ của họ. Chỉ cần liếc nhìn bản chi thu của chính phủ Mỹ cũng đủ thuyết phục bạn rằng chuyện này có thể xảy ra đến như thế nào: chi tiêu chính phủ gia tăng phi mã và thuế thu vào tuột dốc - nó không thể duy trì mãi được. Nếu một trong hai kịch bản này xảy ra, cuộc khủng hoảng dây chuyền sau đó sẽ khiến sự suy thoái kinh tế hiện tại nhìn giống như một cuộc đi dạo mát trong công viên. Dù là sự sụp đổ từ từ hay bất thần một cách thót tim, kết quả sẽ là sự hỗn loạn, xung đột dân sự và chủ nghĩa phát-xít. Hãy đối diện sự thật: Mỹ giống như Nam Tư cũ - một hỗn hợp của nhiều văn hóa đối nghịch nhau, chỉ thống nhất trên danh nghĩa mà thôi. Các bạn sẽ có nhóm Taliban của riêng của các bạn: thành phần Thiên chúa cực hữu căm ghét ý niệm một nhà nước thế tục thành lập theo Hiến Pháp. Bạn có một lớp quần chúng đầu óc bình dân rộng lớn đã thấm nhuần tuyên truyền đài Fox và các đài phát thanh trong nhiều thập niên vừa qua, sẵn sàng đổ lỗi sụp đổ kinh tế lên đảng Dân chủ, những người đồng tình luyến ái và người nhập cư. Bạn có một tầng lớp tư sản tàn bạo sẵn sàng dùng mọi phương tiện trong tầm tay để bảo vệ của cải của họ chống lại khối quần chúng đói khát. Thêm vào đó bạn có các trang trại công nghiệp, các vùng ngoại ô trải dài và một hệ thống vận chuyển hàng hóa dựa trên xe tải, tất cả phụ thuộc vào dầu mỏ, thứ sắp trở nên quá đắt đỏ với hầu hết mọi người. Và bạn có nhiều súng ống. Rất nhiều súng ống, Tóm lại: Mỹ quốc đang sắp trở thành một nơi rất khó sinh sống. Hiện nay, chính phủ đang xây dựng hàng rào và tường dọc theo biên giới phía bắc và phía nam. Hiện nay, chính phủ đang thiết kế một hệ thống căn cước quốc gia (sẽ được gắn thêm các tính năng sinh trắc học). Hiện nay, chính phủ đang xây dựng một hệ thống giám sát rộng lớn đến nỗi họ có thể theo dõi nhất cử nhất động của bạn, trên mạng, ngoài phố và xuyên qua biên giới. Nếu bạn nghĩ rằng điều này để bảo vệ bạn khỏi “khủng bố”, thì bạn lầm to một cách đáng buồn. Nếu có biến cố gì xảy ra, bạn có thật sự nghĩ rằng bạn sẽ có thể nhảy vào chiếc xe cũ, lái qua biên giới Canada và dùng thời gian câu cá và uống bia Molson? Không, nhà nước sẽ phong tỏa toàn bộ quốc gia. Họ không muốn nguồn thuế của họ trốn đi mất. Họ không muốn nguồn “tuyển quân” của họ trốn thoát . Họ không muốn BẠN trốn thoát. Tôi không viết điều này để dọa bạn. Tôi viết điều này tới bạn như là một người bạn. Nếu bạn có thể đọc và hiểu những gì tôi viết ra đây, tức là bạn là thành phần của một cộng đồng thiểu số tại Mỹ. Bạn là thiểu số trong một đất nước không có chỗ cho bạn. Thế bạn nên làm gì? Bạn nên rời khỏi nước Mỹ. Nếu bạn còn trẻ, bạn có nhiều sự lựa chọn: bạn có thể dạy tiếng Anh tại Trung Đông, Á châu hay Âu châu. Hay bạn có thể vào đại học hay cao học ở nước ngoài và bắt đầu xây dựng căn bản chuyên môn cho phép bạn đủ tiêu chuẩn được giấy phép lao động. Nếu bạn có tay nghề và chuyên môn thật sự rồi, bạn có thể xin di dân đến bất cứ quốc gia nào như là di dân có tay nghề. Nếu bạn lớn tuổi và bạn có chút tiền tiết kiệm, bạn có thể nghỉ hưu tại một nơi như Costa Rica hay Philippines. Nếu bạn không lấy được nhập cảnh để làm việc, đi học hay hưu trí, cũng đừng để điều này ngăn cản bạn - hãy cứ đi bằng thị thực du lịch đến quốc gia mà bạn thích và thảo luận với cộng đồng dân ngoại quốc ở đó. Bất cứ nơi nào bạn đi, tới gặp luật sư di trú càng sớm càng tốt. Tìm ra một cách chính xác làm thế nào đến được con đường dẫn đến thường trú nhân và sau đó quốc tịch của quốc gia mà bạn lựa chọn. Bạn không đơn độc đâu. Có cả triệu người Mỹ như tôi sống ngoài nước Mỹ. Sống một cuộc đời đầy đủ ý nghĩa, bình an, tự do và sung túc hơn là chúng ta có thể đạt được ở quê nhà. Vài người trong chúng tôi đi đến quyết định này một cách ngẫu nhiên - chúng tôi sống một năm ở nước ngoài và hiểu ra rằng chúng tôi thích vậy - những người khác thực hiện quyết định đầy ý thức, thu xếp và dọn đi vĩnh viễn. Bạn sẽ tìm thấy chúng tôi ở Canada, trên toàn Âu châu, tại nhiều vùng ở Á Châu, tại Úc và New Zealand, và tại phần lớn các quốc gia khác trên thế giới. Chúng tôi có thương nhớ gia đình và bạn bè không? Có chứ. Chúng tôi đôi khi có nhớ một phần nào đó của quê xưa không? Có chứ. Chúng tôi có tính đến việc trở lại sống tại Mỹ không? Không bao giờ. Và những người trong chúng tôi có thường trú nhân hay quốc tịch có thể bảo lãnh các thành viên gia đình từ quê nhà để có thể nhập cảnh dài hạn trên đất nước hiện cư trú của chúng tôi. Để kết luận, tôi muốn nhắc nhở bạn điều này: trừ phi bạn là người thổ dân Da Đỏ hay là con cháu của lớp người nô lệ, thì ở một thời điểm nào đó trong quá khứ, tổ tiên của bạn đã chọn rời bỏ quê hương họ để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ không là kẻ phản bội hay là người xấu, họ chỉ muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ và gia đình. Có phải đây là lúc bạn tiếp tục cuộc hành trình của họ chăng?
Chứng thái nhân cách được định nghĩa trong tâm thần học là một trạng thái đặc trưng bởi sự thiếu hụt khả năng đồng cảm hoặc lương tâm, tính khoa trương, ngạo mạn, nhẫn tâm, nông cạn, kém khả năng kiềm chế và hay sử dụng thủ đoạn để giành quyền kiểm soát của cải, tài nguyên hoặc con người. Kẻ thái nhân cách cũng được biết đến là dễ nóng giận, không cảm thấy hối lỗi hay lo lắng và dễ phạm pháp hay gây tội ác.
Và sự thật là, chứng thái nhân cách không thể chữa trị được.
Đó là lý do khiến cô ấy có thể sát hại con mà không hề bị căn rứt luơng tâm như 96% những người bình thường. Các bạn có thể đọc thêm về chứng thái nhân cách ở blog này: http://dauhieuthoidai.blogspot.com/2011/06/ai-cuong-ve-chung-thai-nhan-cach.html
Nước Mỹ: Sự thật tàn nhẫn
Tác giả: Lance Freeman
Nguồn: Information Clearing House
Nguồn dịch: Blog Nhân Chủ
Người dân Mỹ, tôi có vài tin xấu cho bạn: Bạn có phẩm chất đời sống tồi nhất trong các nước tiên tiến - tệ hại vượt xa các nước khác.
Nếu bạn biết rằng người ta thật sự sống ra sao tại các nước Tây Âu, Úc, New Zealand, Canada và ở nhiều vùng của Á châu, bạn sẽ nổi loạn, xuống đường đòi một cuộc sống khá hơn. Thật vậy, một tài xế tắc xi trung bình của Úc hay Singapore có mức sống khá hơn một nhân viên văn phòng tiêu biểu ở Mỹ.
Tôi biết điều này vì tôi là người Mỹ, và tôi đã bỏ trốn từ cái nhà tù mà bạn gọi là quê nhà. Tôi đã sống vòng quanh thế giới, tại các nước giàu và nghèo, và chỉ có một nước duy nhất tôi không bao giờ muốn về sống trở lại: đó là Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Chỉ mới nghĩ về nó thôi đã làm tôi tràn ngập nỗi kinh sợ.
Hãy suy nghĩ về điều này: Bạn, người dân Mỹ, là dân tộc duy nhất trong các nước phát triển không có hệ thống bảo hiểm y tế chung cho mọi người. Tất cả mọi người tại Tây Âu, Nhật Bản, Canada, Úc, Singapre và New Zealand có hệ thống chung duy nhất. Nếu họ bị bệnh, họ có thể tập trung hết năng lượng để bình phục. Nếu bạn mắc bệnh, bạn phải chống đỡ với hai thứ cùng lúc: bệnh tình của bạn và nỗi lo sợ bị phá sản. Hàng triệu người Mỹ phá sản mỗi năm vì phí tổn y tế, và hàng chục ngàn người chết hằng năm vì họ không có bảo hiểm hay bảo hiểm không đủ. Và đừng tin một giây phút nào cái thứ tuyên truyền rác rưởi rằng nước Mỹ có hệ thống y tế tốt nhất và danh sách đợi ngắn nhất: Tôi từng tới bệnh viện ở Úc, New Zealand, Âu Châu, Singapore, và Thái Lan, và tất cả mọi bệnh viện đều hơn cái bệnh viện “tốt” mà tôi thường đi khi còn ở Mỹ. Danh sách đợi ngắn hơn, cơ sở tiện nghi hơn, và các bác sĩ cũng giỏi ngang bằng.
Đây là điều mỉa mai, vì bạn là những người cần hệ thống y tế tốt hơn bất kỳ ai khác trên thế giới. Tại sao vậy? Vì lối sống Mỹ của bạn gần như được thiết kế để làm bạn bị bệnh.
Hãy bắt đầu với chế độ ăn của bạn: Phần lớn thịt bò bạn ăn đã bị nhiễm bẩn trong quá trình chế xuất. Gà của bạn bị nhiễm vi khuẩn salmonella. Gia súc và gia cầm của bạn bị tiêm đầy hormone tăng trưởng và thuốc kháng sinh. Tại hầu hết các nước khác, chính quyền sẽ hành động để bảo vệ người tiêu dùng khỏi những thứ này; tại Mỹ, chính quyền bị mua đứt bởi giới kỹ nghệ để ngăn cản bất cứ luật lệ hay sự thanh tra hiệu quả nào. Trong vài năm nữa, phần lớn các sản phẩm rau quả bán ra trên thị trường Mỹ sẽ được biến chế từ các nông sản biến đổi gen, do mối quan hệ khăng khít giữa tập đoàn Monsanto và chính quyền Mỹ. Tệ hại hơn nữa, do lượng si-rô bắp nhiều fructose (high fructose corn syrup) khổng lồ mà dân Mỹ tiêu thụ, một phần ba số trẻ em sinh ra ở Mỹ ngày nay sẽ mắc bệnh tiểu đường loại 2 vào một thời điểm nào đó trong đời của chúng.
Dĩ nhiên, không chỉ thực phẩm đang giết bạn, mà còn các loại thuốc nữa. Nếu bạn có chút sinh khí nào khi bạn còn bé, họ sẽ cho bạn Ritalin. Và rồi, khi bạn đủ lớn cả để nhìn xung quanh, bạn sẽ bị trầm cảm nên họ sẽ cho bạn Prozac. Nếu bạn là đàn ông, điều này sẽ khiến bạn bất lực vì các hóa chất, nên bạn sẽ cần Viagra để cương lên. Trong khi đó, chế độ ăn đều đặn đầy dầu hydro hóa (trans fat) bảo đảm cho bạn nồng độ cholesterol cao trong máu, nên bạn sẽ cần đơn thuốc cho Lipitor. Cuối cùng, vào cuối ngày, bạn sẽ nằm thao thức cả đêm lo lắng về việc mất bảo hiểm y tế, nên bạn sẽ cần Lunesta để ngủ.
Với chế độ ăn bảo đảm làm bạn bị bệnh và một hệ thống y tế thiết kế để bạn cứ duy trì tình trạng như vậy, cái bạn thực sự cần là một kỳ nghỉ dài đâu đó. Xui xẻo thay, bạn không thể có nó. Tôi sẽ bật mí cho bạn một bí mật nho nhỏ: nếu bạn đi biển ở Thái Lan, núi ở Nepal hay bờ san hô ở Úc, bạn có lẽ sẽ là người Mỹ duy nhất trong tầm nhìn. Và bạn sẽ được vây quanh bởi đám đông người Đức, Pháp, Ý, Israel, Bắc Âu và dân Á Châu sung túc. Tại sao vậy? Vì họ được trả lương đầy đủ để có thể thăm viếng các nơi này VÀ họ có thể lấy đủ ngày phép để làm vậy. Cho dù nếu bạn có thể dành dụm đủ tiền để đi đến một trong những nơi chốn đẹp không tả nổi này, đến khi bạn vừa tỉnh cơn say máy bay là đến giờ leo lên máy bay và hối hả lao về lại với công việc của bạn.
Nếu bạn nghĩ tôi dựng lên chuyện này, hãy kiểm chứng với thống kê về số ngày nghỉ thường niên trung bình theo quốc gia:
Phần Lan: 44
Ý: 42
Pháp: 39
Đức: 35
Anh: 25
Nhật Bản: 18
Mỹ: 12
Sự thật là bọn chúng hành bạn như chó ở Mỹ. Điều này không có gì ngạc nhiên: nước Mỹ chưa bao giờ rời bỏ mô hình lao động đồn điền/công xưởng và bất cứ phong trào lao động thật sự nào đều bị đàn áp dã man. Trừ phi bạn thuộc về tầng lớp ông chủ, sự chọn lựa của bạn chỉ giới hạn trong việc sống sót với đồng lương ít ỏi trong ngành dịch vụ hay chơi trò “dành ghế” để có một góc bàn trong văn phòng (cái vị trí mà đằng nào trong tuần tới cũng sẽ được chuyển giao qua Ấn Độ). Điều khá nhất mà bạn có thể hy vọng là kiếm được một bằng cấp chuyên môn và rồi cố gắng chen vào tầng lớp trung lưu. Và kể cả những người bấu víu vào được giới trung lưu cũng chỉ cách xa sự nghèo khó trong đường tơ kẽ tóc của một cơn bạo bệnh hay thất nghiệp. Công việc của bạn không bảo đảm. Công ty của bạn không có lòng lo lắng cho bạn. Họ cài bạn vào thế chống lại các đồng nghiệp chừng nào điều đó phù hợp với họ, rồi sau đó họ tống cổ bạn đi.
Dĩ nhiên, bạn không có sự lựa chọn nào khác: hệ thống đã được thiết kế ra như vậy. Ở hầu hết các nước tiên tiến, giáo dục đại học là miễn phí hoặc được tài trợ phần lớn. Nhưng tại nước Mỹ, một bằng đại học có thể làm bạn nợ tới 100 ngàn đô-la. Như vậy, bạn bước vào thế giới việc làm với món nợ nặng trĩu. Hãy quên đi việc nghỉ một năm để đi vòng quanh thế giới và tìm hiểu chính mình - bạn phải bắt đầu làm việc hay là nhìn chỉ số tín dụng của bạn lao xuống dốc.
Nếu bạn “may mắn”, bạn thậm chí có thể kiếm được một công việc đủ tốt để giúp bạn đạt tiêu chuẩn vay tiền mua nhà. Và rồi bạn sẽ xài phân nửa cuộc đời làm việc của bạn chỉ để trả tiền lời trên món nợ đó. Chúc mừng bạn đã tới thế giới nô lệ thông qua nợ nần của Mỹ. Nước Mỹ có ảo tưởng về sự giàu có vĩ đại vì có thật nhiều “hàng hóa” xung quanh, nhưng thật ra ai sở hữu nó? Trên thực tế, người Mỹ trung bình nghèo hơn người dân xóm ổ chuột nghèo nhất tại Manila, vì ít ra họ không có nợ nần. Nếu họ muốn thu vén và dọn đi, họ có thể làm được; nhưng nếu bạn muốn dọn đi, bạn không thể làm được, vì bạn còn phải trả nợ.
Tất cả những điều này dẫn tới câu hỏi: Tại sao có ai lại chịu đựng những thứ đó? Hỏi bất kỳ người Mỹ nào và bạn sẽ có được cùng câu trả lời: vì nước Mỹ là nước tự do nhất trên trái đất.
Nếu bạn tin điều này thì tôi có thêm nhiều tin xấu cho bạn: Mỹ thực ra nằm trong những nước ít tự do nhất trên thế giới. Nước tiểu bạn bị kiểm tra, email và điện thoại của bạn bị theo dõi, hồ sơ y tế riêng tư của bạn bị giám sát, và lúc nào bạn cũng có thể quằn quại trên mặt đất vì bị chích 2 mũi roi điện Taser vào mông do lỡ mồm nói gì đó không đúng chỗ.
Và đó mới chỉ là tự do về thể xác. Về tinh thần, bạn thật sự bị cầm tù. Bạn thậm chí không biết mức độ bạn bị dày vò bởi nỗi sợ phá sản do ốm đau, mất việc, vô gia cư và tội ác bạo lực vì bạn chưa từng sống trong một nước nơi không cần thiết phải lo lắng về những chuyện như vậy.
Nhưng nó đi sâu hơn việc bị giám sát và lo lắng nhiều. Sự thật là, bạn không tự do vì đất nước của bạn đã bị sang đoạt và chiếm đóng bởi một chính quyền khác. Đến 70% tiền thuế của bạn chạy tới Lầu Năm Góc, và Lầu Năm Góc là chính quyền thật sự của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Bạn buộc phải trả thuế cho chính quyền chiếm đóng này hoặc là chết. Nếu bạn từ các tầng lớp kém may mắn, bạn còn phải phục vụ và chết trong các cuộc chiến tranh vô tận của chúng, hay gửi con cái của bạn để làm việc đó. Bạn không có sự lựa chọn trong chuyện này: một hệ thống quân dịch dựa trên các yếu tố kinh tế-xã hội tại Mỹ cung cấp nguồn bia đỡ đạn đều đặn cho quân đội.
Nếu bạn gọi một cuộc sống dưới sự giám sát, trong lo lắng và lao động không ngừng phục vụ một chính quyền bạn không bầu lên là "tự do," thì bạn và tôi có ý niệm rất khác nhau về chữ "tự do" đó có nghĩa là gì.
Nếu có chút cơ may là đất nước này thay đổi thì có lẽ còn có lý do để hy vọng. Nhưng liệu bạn có thể nhìn chung quanh một cách thành thật và kết luận rằng có điều gì sẽ thay đổi không? Thay đổi sẽ đến từ đâu? Dân chúng? Hãy nhìn kỹ các đồng hương của bạn: dân lao động ở Mỹ bị nhồi sọ một cách tàn bạo bởi lũ chó hoang như Rush Limbaugh, Bill O’Reilly và Sean Hannity. Các thành viên của giới lao động được dạy liếm gót giày chủ nhân và cúi xuống để bị đá vào mông cái nữa. Bọn chúng đã huấn luyện những người này thuần thục đến nỗi họ sẵn sàng cầm vũ khí chống lại một nửa còn lại của giới lao động ngay khi chủ nhân của họ ra lệnh.
Nếu dân chúng không thể thực thi việc thay đổi, còn giới truyền thông thì sao? Không có cơ may nào. Từ đài Fox News cho tới báo NewYork Times, truyền thông đại chúng ở Mỹ không là cái gì khác hơn là bộ phận quan hệ công chúng của các tập đoàn cai trị, chủ yếu là hệ thống công nghiệp quân sự. Ít nhất, dân chúng Liên Xô cũ biết rằng tin tức của họ sánh ngang với phân bò. Tại Mỹ, bạn lớn lên nghĩ rằng bạn có một nền truyền thông tự do, điều đó làm sự tuyên truyền hữu hiệu gấp bội. Nếu bạn không nghĩ giới truyền thông Mỹ chỉ đơn thuần là tuyên truyền doanh nghiệp, hãy tự hỏi câu hỏi sau đây: Bạn có bao giờ nghe một công ty truyền thông lớn của Mỹ đăng tải đề nghị là nước Mỹ có thể chi tiêu cho hệ thống bảo hiểm toàn dân bằng việc cắt giảm chi tiêu quân sự?
Nếu thay đổi không đến từ dân chúng hay giới truyền thông, tiềm lực thay đổi còn lại chỉ là giới chính trị. Bất hạnh thay, tiến trình chính trị Mỹ là một trong những nền chính trị thối nát nhất trên thế giới. Trong mỗi nước trên trái đất, người ta biết trước các chính trị gia ăn hối lộ từ giới giàu có. Nhưng thường thì chuyện này xảy ra bí mật, sau lằn cửa khép của các hội quán ưu tú của họ. Tại Mỹ, chuyện hối lộ chính trị kiểu này diễn ra ban ngày ban mặt, như một phần của cách hành xử hợp pháp, tiêu chuẩn và được chấp nhận. Tại Mỹ, họ chỉ gọi các món hối lộ này là đóng góp chiến dịch tranh cử, ủy ban vận động chính trị và vận động hành lang. Người ta không thể hy vọng các chính trị gia thay đổi hệ thống này hơn là hy vọng một người lấy cái rìu và tự đốn chân mình từ dưới.
Không, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không thể thay đổi thành tốt hơn. Sự thay đổi duy nhất là thành tệ hơn. Và khi tôi nói tệ hơn, tôi muốn nói là tệ hơn nhiều. Khi chúng ta đang nói chuyện thế này thì hệ thống kinh tế đã duy trì đất nước này từ thời hậu chiến đang sụp đổ. Nước Mỹ đã xài hết “thẻ tín dụng” vào năm 2008 và bây giờ, các chủ nợ, bắt đầu với Trung Quốc, đang trong quá trình đặt nền móng cho một hệ thống tiền tệ mới thay thế hệ thống “đồng đôla dầu mỏ” của Anh-Mỹ. Đến khi có một bản vị vững vàng thay thế đồng đôla Mỹ, đồng đô xanh sẽ chìm nghỉm như hòn đá.
Trong khi nước Mỹ đang chất chồng nợ nần, nó cũng lại bận rộn đưa các công việc sản xuất và văn phòng ra nước ngoài, và để hạ tầng cơ sở của nó nát bấy. Cùng lúc đó, các quốc gia Á Châu và Âu châu đang đầu tư vào giáo dục, hạ tầng và nguyên liệu. Cho dù Hoa Kỳ cố gắng xây dựng lại một nền kinh tế thật sự (chứ không phải một nền kinh tế tài chính/dịch vụ) bạn có nghĩ rằng công nhân Mỹ sẽ còn bao giờ có thể cạnh tranh với công nhân Trung Quốc hay Âu Châu? Bạn đã có bao giờ nhìn thấy một nhà máy Nhật bản hay Đức quốc chưa? Bạn có bao giờ gặp một công nhân Singapore hay Trung quốc chưa?
Chỉ có hai lựa chọn tương lai đối mặt nước Mỹ, và không có cái nào đẹp đẽ cả. Trường hợp tốt nhất là một sự tuột dốc chậm chạp nhưng có trật tự - về cơ bản là sự tiếp nối của những gì đang xảy ra trong hai thập niên qua. Mức lương sẽ xuống, thất nghiệp sẽ lên, bảo hiềm y tế cho người già và nghèo khó cùng quyền lợi An sinh Xã hội sẽ bị cắt, đồng tiền sẽ mất giá, và sự cách biệt giàu nghèo sẽ bung ra ngoài vòng kiểm soát cho tới khi Mỹ bắt đầu trở nên giống như Mexico hay Philippines - những hòn đảo tí hon của sự giàu có vây quanh bởi đại dương nghèo khó (đất nước Mỹ đã đi được nửa đường tới đó rồi).
Khả năng tương đương còn lại là một sự sụp đổ bất thần, có lẽ xảy đến khi các nước chủ nợ như Trung quốc, Nhật bản, Hàn quốc và các quốc gia dầu hỏa Opec bán tống bán tháo đôla Mỹ. Một khả năng liên quan là việc chính phủ Mỹ vỡ nợ với số nợ khổng lồ của họ. Chỉ cần liếc nhìn bản chi thu của chính phủ Mỹ cũng đủ thuyết phục bạn rằng chuyện này có thể xảy ra đến như thế nào: chi tiêu chính phủ gia tăng phi mã và thuế thu vào tuột dốc - nó không thể duy trì mãi được. Nếu một trong hai kịch bản này xảy ra, cuộc khủng hoảng dây chuyền sau đó sẽ khiến sự suy thoái kinh tế hiện tại nhìn giống như một cuộc đi dạo mát trong công viên.
Dù là sự sụp đổ từ từ hay bất thần một cách thót tim, kết quả sẽ là sự hỗn loạn, xung đột dân sự và chủ nghĩa phát-xít. Hãy đối diện sự thật: Mỹ giống như Nam Tư cũ - một hỗn hợp của nhiều văn hóa đối nghịch nhau, chỉ thống nhất trên danh nghĩa mà thôi. Các bạn sẽ có nhóm Taliban của riêng của các bạn: thành phần Thiên chúa cực hữu căm ghét ý niệm một nhà nước thế tục thành lập theo Hiến Pháp. Bạn có một lớp quần chúng đầu óc bình dân rộng lớn đã thấm nhuần tuyên truyền đài Fox và các đài phát thanh trong nhiều thập niên vừa qua, sẵn sàng đổ lỗi sụp đổ kinh tế lên đảng Dân chủ, những người đồng tình luyến ái và người nhập cư. Bạn có một tầng lớp tư sản tàn bạo sẵn sàng dùng mọi phương tiện trong tầm tay để bảo vệ của cải của họ chống lại khối quần chúng đói khát.
Thêm vào đó bạn có các trang trại công nghiệp, các vùng ngoại ô trải dài và một hệ thống vận chuyển hàng hóa dựa trên xe tải, tất cả phụ thuộc vào dầu mỏ, thứ sắp trở nên quá đắt đỏ với hầu hết mọi người. Và bạn có nhiều súng ống. Rất nhiều súng ống, Tóm lại: Mỹ quốc đang sắp trở thành một nơi rất khó sinh sống.
Hiện nay, chính phủ đang xây dựng hàng rào và tường dọc theo biên giới phía bắc và phía nam. Hiện nay, chính phủ đang thiết kế một hệ thống căn cước quốc gia (sẽ được gắn thêm các tính năng sinh trắc học). Hiện nay, chính phủ đang xây dựng một hệ thống giám sát rộng lớn đến nỗi họ có thể theo dõi nhất cử nhất động của bạn, trên mạng, ngoài phố và xuyên qua biên giới. Nếu bạn nghĩ rằng điều này để bảo vệ bạn khỏi “khủng bố”, thì bạn lầm to một cách đáng buồn. Nếu có biến cố gì xảy ra, bạn có thật sự nghĩ rằng bạn sẽ có thể nhảy vào chiếc xe cũ, lái qua biên giới Canada và dùng thời gian câu cá và uống bia Molson? Không, nhà nước sẽ phong tỏa toàn bộ quốc gia. Họ không muốn nguồn thuế của họ trốn đi mất. Họ không muốn nguồn “tuyển quân” của họ trốn thoát . Họ không muốn BẠN trốn thoát.
Tôi không viết điều này để dọa bạn. Tôi viết điều này tới bạn như là một người bạn. Nếu bạn có thể đọc và hiểu những gì tôi viết ra đây, tức là bạn là thành phần của một cộng đồng thiểu số tại Mỹ. Bạn là thiểu số trong một đất nước không có chỗ cho bạn.
Thế bạn nên làm gì?
Bạn nên rời khỏi nước Mỹ.
Nếu bạn còn trẻ, bạn có nhiều sự lựa chọn: bạn có thể dạy tiếng Anh tại Trung Đông, Á châu hay Âu châu. Hay bạn có thể vào đại học hay cao học ở nước ngoài và bắt đầu xây dựng căn bản chuyên môn cho phép bạn đủ tiêu chuẩn được giấy phép lao động. Nếu bạn có tay nghề và chuyên môn thật sự rồi, bạn có thể xin di dân đến bất cứ quốc gia nào như là di dân có tay nghề. Nếu bạn lớn tuổi và bạn có chút tiền tiết kiệm, bạn có thể nghỉ hưu tại một nơi như Costa Rica hay Philippines. Nếu bạn không lấy được nhập cảnh để làm việc, đi học hay hưu trí, cũng đừng để điều này ngăn cản bạn - hãy cứ đi bằng thị thực du lịch đến quốc gia mà bạn thích và thảo luận với cộng đồng dân ngoại quốc ở đó. Bất cứ nơi nào bạn đi, tới gặp luật sư di trú càng sớm càng tốt. Tìm ra một cách chính xác làm thế nào đến được con đường dẫn đến thường trú nhân và sau đó quốc tịch của quốc gia mà bạn lựa chọn.
Bạn không đơn độc đâu. Có cả triệu người Mỹ như tôi sống ngoài nước Mỹ. Sống một cuộc đời đầy đủ ý nghĩa, bình an, tự do và sung túc hơn là chúng ta có thể đạt được ở quê nhà. Vài người trong chúng tôi đi đến quyết định này một cách ngẫu nhiên - chúng tôi sống một năm ở nước ngoài và hiểu ra rằng chúng tôi thích vậy - những người khác thực hiện quyết định đầy ý thức, thu xếp và dọn đi vĩnh viễn. Bạn sẽ tìm thấy chúng tôi ở Canada, trên toàn Âu châu, tại nhiều vùng ở Á Châu, tại Úc và New Zealand, và tại phần lớn các quốc gia khác trên thế giới.
Chúng tôi có thương nhớ gia đình và bạn bè không? Có chứ. Chúng tôi đôi khi có nhớ một phần nào đó của quê xưa không? Có chứ. Chúng tôi có tính đến việc trở lại sống tại Mỹ không? Không bao giờ. Và những người trong chúng tôi có thường trú nhân hay quốc tịch có thể bảo lãnh các thành viên gia đình từ quê nhà để có thể nhập cảnh dài hạn trên đất nước hiện cư trú của chúng tôi.
Để kết luận, tôi muốn nhắc nhở bạn điều này: trừ phi bạn là người thổ dân Da Đỏ hay là con cháu của lớp người nô lệ, thì ở một thời điểm nào đó trong quá khứ, tổ tiên của bạn đã chọn rời bỏ quê hương họ để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ không là kẻ phản bội hay là người xấu, họ chỉ muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ và gia đình. Có phải đây là lúc bạn tiếp tục cuộc hành trình của họ chăng?
Lá thư sữa: Một thông điệp gửi đến các bệnh nhân của tôi
Tác giả: Robert M. Kradjian
Chủ nhiệm khoa phẫu thuật vú, Trung tâm y tế Seton, thành phố Daly, California, Mỹ
Nguồn: THE MILK LETTER : A MESSAGE TO MY PATIENTS
“Sữa”. Chỉ cần một từ ấy là đủ để bạn cảm thấy bình yên! “Một cốc sữa nóng nhé?” Lần cuối bạn nghe câu hỏi ấy là từ một người quan tâm đến bạn – và bạn biết ơn sự săn sóc của họ.
Mọi thứ về thực phẩm và đặc biệt là sữa mang ý nghĩa quan trọng về tình cảm và văn hóa. Sữa là thức ăn đầu tiên của chúng ta. Nếu chúng ta may mắn, đó sẽ là sữa mẹ. Một liên kết yêu thương, cho và nhận. Đấy là con đường duy nhất của sự sống. Nếu không phải là sữa mẹ thì là sữa bò, hay sữa “công thức” từ đậu tương - hiếm khi nó là sữa dê, lạc đà hay trâu.
Giờ đây, chúng ta là một quốc gia của những người uống sữa. Gần như tất cả chúng ta. Trẻ sơ sinh, trẻ em, thiếu niên, người lớn, thậm chí người già. Chúng ta uống hàng chục, thậm chí hàng trăm lít sữa một năm và thêm vào đó là nhiều ký các sản phẩm sữa như pho mát, bơ và sữa chua.
Liệu có gì không ổn không? Chúng ta thấy hình ảnh những người khỏe mạnh đẹp đẽ trên vô tuyến và nghe những thông điệp trấn an chúng ta rằng “Sữa là tốt cho cơ thể bạn.” Các nhà dinh dưỡng của chúng ta khẳng định: “Bạn phải uống sữa, không thì bạn lấy canxi ở đâu?” Bữa trưa ở trường lúc nào cũng có sữa và gần như tất cả các bữa ăn ở các bệnh viện đều có kèm sữa. Nếu thế còn chưa đủ, các nhà dinh dưỡng vẫn bảo chúng ta hàng năm trời nay rằng các sản phẩm sữa là một “nhóm thức ăn thiết yếu”. Phát ngôn viên từ các công ty đảm bảo rằng những biểu đồ đầy màu sắc mang những thông điệp về tầm quan trọng của sữa và các chất dinh dưỡng thiết yếu khác được phân phát miễn phí đến các trường học. Sữa bò trở thành “bình thường”.
Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng phần lớn mọi người sống trên trái đất ngày nay không uống hay sử dụng sữa bò. Thêm vào đó, hầu hết trong số họ không uống được sữa vì nó khiến họ bị bệnh.
Có những người trong ngành dinh dưỡng không ủng hộ việc uống sữa ở người lớn. Đây là một trích dẫn từ số tháng 3/4 năm 1991 của tạp chí Utne Reader:
Nếu bạn thực sự muốn an toàn, bạn nên quyết định gia nhập con số ngày càng tăng của những người Mỹ đang loại bỏ hoàn toàn các sản phẩm sữa khỏi thực đơn của họ. Mặc dù nó nghe có vẻ cực đoan đối với những người trong chúng ta từ bé đã nghe nói về sữa và năm nhóm thức ăn cơ bản, nó rất khả thi. Thật vậy, trong số tất cả động vật có vú, chỉ có con người, và cũng chỉ một thiểu số con người, chủ yếu là người da trắng, tiếp tục uống sữa sau giai đoạn sơ sinh.
Ai đúng? Tại sao lại rối tung lên như vậy? Câu trả lời ở đâu? Bạn có thể tin phát ngôn viên của ngành công nghiệp sữa được không? Bạn có thể tin phát ngôn viên của bất kỳ ngành công nghiệp nào được không? Các nhà dinh dưỡng học có được cập nhật không hay họ chỉ lặp lại những gì các giáo sư của họ biết từ nhiều năm trước? Những tiếng nói kêu gọi sự thận trọng thì sao?
Tôi tin rằng có ba nguồn thông tin đáng tin cậy. Nguồn thứ nhất, và có lẽ là tốt nhất, là từ nghiên cứu về thiên nhiên. Nguồn thứ hai là từ nghiên cứu về lịch sử của chính loài người. Và cuối cùng là các tài liệu khoa học trên thế giới về chủ đề sữa.
Hãy xem xét các tài liệu khoa học trước. Từ năm 1988 đến năm 1993 có hơn 2700 bài báo về sữa được lưu trữ trong các tạp chí y học. 1500 trong số đó có sữa là đề tài chính. Không thiếu gì thông tin khoa học về chủ đề này. Tôi đã xem xét kỹ hơn 500 trong số 1500 bài báo đó, loại bỏ những bài tập trung vào thú vật và những bài có kết luận không rõ ràng.
Tôi nên tóm tắt những bài báo ấy thế nào? Dùng từ “gây kinh hoàng” chỉ hơi phóng đại một chút xíu. Đầu tiên, không một tác giả nào nói sữa bò là một thực phẩm tuyệt vời, không có hiệu ứng phụ, một “thực phẩm hoàn hảo” như ngành công nghiệp sữa vẫn muốn chúng ta tin. Trọng tâm chính của các báo cáo ấy là các chứng đau đường ruột, kích thích đường ruột, chảy máu đường ruột, thiếu máu, phản ứng dị ứng ở trẻ sơ sinh và trẻ em và các bệnh nhiễm trùng đường ruột như salmonella. Đáng sợ hơn nữa là mối quan ngại về các bệnh nhiễm virus như virus gây bệnh bạch cầu ở bò và một loại virus giống AIDS ở bò hay các quan ngại về bệnh tiểu đường ở trẻ em. Sự nhiễm bẩn sữa từ các tế bào máu và máu trắng (mủ) cùng với một loạt hóa chất và thuốc trừ sâu cũng được thảo luận. Ở trẻ em là các vấn đề như dị ứng, viêm tai và viêm amiđan, đái dầm, hen, chảy máu đường ruột, đau bụng và tiểu đường ở trẻ em. Ở người lớn, các vấn đề có vẻ tập trung chủ yếu vào bệnh tim và viêm khớp, dị ứng, viêm xoang và những câu hỏi nghiêm trọng hơn về bệnh bạch cầu, bệnh u bạch huyết và ung thư.
Tôi nghĩ rằng câu trả lời còn có thể được tìm ra bằng cách xem xét những gì xảy ra trong tự nhiên, những gì xảy ra với các động vật có vú trong tự nhiên và những gì xảy ra với những nhóm người sống gần với thiên nhiên, những người săn bắt, hái lượm.
Các tổ tiên từ thời đồ đá cũ của chúng ta là một nhóm quan trọng và thú vị nữa để nghiên cứu. Ở đây chúng ta chỉ có thể dựa vào phỏng đoán và các bằng chứng gián tiếp, nhưng những bộ xương còn sót lại cho chúng ta nghiên cứu thật là đáng kính nể. Không còn chút nghi ngờ gì nữa. Những bộ xương ấy phản ánh sức khỏe tuyệt vời và sự vắng mặt hoàn toàn của chứng loãng xương giai đoạn cuối. Và nếu bạn cảm thấy những người này không quan trọng cho chúng ta nghiên cứu, hãy nhớ là bộ gen của chúng ta ngày nay đang lập trình cơ thể của chúng ta gần giống hệt như cách chúng lập trình cơ thể tổ tiên chúng ta 50.000 hay 100.000 năm về trước.
Sữa là gì?
Sữa là một chất tiết ra trong thời kì cho con bú, một chất dinh dưỡng ngắn hạn cho trẻ sơ sinh. Không hơn, không kém. Với bất kì loài động vật có vú nào, con mẹ cung cấp sữa trong một thời gian ngắn ngay sau khi sinh. Khi đến lúc “cai sữa”, con con được chuyển sang những thức ăn thích hợp với loài đó. Một ví dụ quen thuộc là con chó. Chó mẹ cho con bú khoảng vài tuần và sau đó đẩy chúng ra và thay vào đó dạy chúng ăn thức ăn đặc. Dĩ nhiên là những động vật sống trong tự nhiên không thể tiếp tục uống sữa sau thời kì cai sữa.
Có phải mọi sữa đều giống nhau không?
Rồi đến vấn đề chúng ta lấy sữa chúng ta vẫn uống từ đâu. Chúng ta dùng bò vì bản tính ngoan ngoãn, kích cỡ to lớn và nguồn sữa dồi dào của nó. Sự lựa chọn này có vẻ “bình thường”, được ủng hộ bởi thiên nhiên, nền văn hóa và thói quen của chúng ta. Nhưng nó có tự nhiên không? Uống sữa của một loài khác có phải là điều khôn ngoan không?
Thử tưởng tượng một chút, nếu có thể, uống sữa của một loài động vật có vú khác hơn là con bò, ví dụ như con chuột. Hay bạn có thể thích sữa của con chó hơn. Hay có thể sữa ngựa hay sữa mèo. Bạn hiểu ý tôi chứ? Tôi không bảo bạn uống thật mà chỉ muốn chỉ ra rằng sữa người là để cho trẻ sơ sinh, sữa chó để cho chó con, sữa bò để cho con bê, sữa mèo để cho mèo con và cứ thế. Rõ ràng đây là cách thiên nhiên định ra như vậy. Hãy sử dụng khả năng xét đoán của bạn ở đây một chút.
Sữa không phải chỉ là sữa. Sữa của mọi loài động vật có vú là riêng biệt và được tiết ra theo các yêu cầu của loài đó. Ví dụ, sữa bò giàu protein hơn sữa người rất nhiều. Giàu hơn ba đến bốn lần. Lượng muối khoáng trong đó cao hơn 5-7 lần. Tuy vậy, nó lại rất thiếu các axits béo thiết yếu so với sữa mẹ. Sữa mẹ có lượng axit béo thiết yếu cao hơn sáu đến mười lần, đặc biệt là axit linoleic. (Nhân tiện nói luôn, sữa bò phân lập không có chút axit linoleic nào). Sữa bò rõ ràng là không được thiết kế cho người.
Thức ăn không phải chỉ là thức ăn và sữa không phải chỉ là sữa. Không phải chỉ có số lượng thức ăn phù hợp mà còn cả thành phần thức ăn phù hợp mới đưa đến sức khỏe và sự phát triển tốt nhất. Các nhà sinh hóa học và sinh lý học – nhưng rất hiếm khi các bác sĩ – đang dần nhận ra rằng thức ăn là yếu tố rất quan trọng để mỗi loài phát triển những đặc tính riêng của chúng.
Rõ ràng đặc tính riêng của loài người là hệ thần kinh phát triển ở mức cao và khả năng điều khiển cơ bắp tinh tế. Chúng ta không cần khung xương đồ sộ hay những bộ cơ khổng lồ như con bò. Thử nghĩ về sự khác nhau giữa những gì đôi tay người làm và những gì chân bò làm. Trẻ sơ sinh cần những nguyên liệu thiết yếu để phát triển não bộ, tủy sống và dây thần kinh của chúng.
Sữa mẹ có thể làm tăng trí thông minh được không? Dường như là có. Trong một nghiên cứu đặc biệt đáng chú ý xuất bản trong tạp chí Lancet trong năm 1992 (số 339, trang 261-264), một nhóm nghiên cứu người Anh chia ngẫu nhiên một số trẻ sơ sinh thiếu tháng thành hai nhóm. Một nhóm uống sữa công thức và nhóm kia uống sữa mẹ. Cả hai nhóm đều uống qua ống thông vào dạ dày. Những đứa trẻ này được theo dõi trong 10 năm sau đó. Trong trắc nghiệm trí thông minh, những đứa trẻ uống sữa mẹ có chỉ số IQ trung bình cao hơn 10 điểm ! Tại sao lại không nhỉ ? Tại sao nguyên liệu đúng đắn cho sự phát triển và trưởng thành của bộ não lại không có tác dụng tích cực ?
Trong tạp chí Dinh dưỡng Lâm sàng Mỹ (American Journal of Clinical Nutrition) (1982), Ralph Holman mô tả một đứa trẻ sơ sinh mắc phải một căn bệnh thần kinh trầm trọng khi được nuôi chỉ bằng dung dịch truyền tĩnh mạch. Dung dịch này chỉ chứa một trong các axit béo thiết yếu là axit linoleic. Khi axit còn lại, axit alpha linoleic được đưa vào dung dịch truyền, chứng rối loạn thần kinh đó biến mất.
Cũng trong tạp chí đó năm năm sau, Bjerve, Mostad và Thoresen ở Na Uy phát hiện tình trạng y hệt ở các bệnh nhân người lớn sống trong thời gian dài qua ống thông vào dạ dày.
Năm 1930, bác sĩ G.O. Burr ở bang Minnesota, Mỹ khi thực nghiệm với chuột đã phát hiện ra sự thiếu hụt axit linoleic gây ra nhiều hội chứng rối loạn. Tại sao tôi lại nhắc đến điều này ở đây ? Đến những năm đầu của thập kỷ 1960, các bác sĩ nhi khoa phát hiện ra tổn thương ở da của những đứa trẻ uống sữa công thức không có axit linoleic. Nhớ lại nghiên cứu trước, họ cho thêm axit linoleic vào sữa và chữa khỏi rối loạn đó. Các axit béo thiết yếu đúng là thiết yếu, và sữa bò rất thiếu chúng so với sữa mẹ.
Vâng, nhưng ít nhất sữa bò là tinh khiết
Có phải vậy không ? Năm mươi năm trước một con bò sản xuất trung bình 1000 lít sữa một năm. Ngày nay, những nhà sản xuất hàng đầu cho ra hơn 20.000 lít ! Họ làm thế nào ? Thuốc, thuốc kháng sinh, hormone, nhồi ăn và nhân giống đặc biệt. Họ làm thế đấy.
Sự tấn công công nghệ cao mới nhất vào con bò khốn khổ là hormone tăng trưởng bò, viết tắt là BGH. Thứ thuốc làm từ công nghệ biến đổi gen này nghe nói là kích thích khả năng sản xuất sữa và theo nhà sản xuất Monsanto thì không ảnh hưởng đến thịt và sữa. Có ba nhà sản xuất khác : Upjohn, Eli Lilly và American Cyanamid Company. Dĩ nhiên là chưa từng có nghiên cứu dài hạn nào về ảnh hưởng của hormone lên những người uống sữa. Nhiều nước khác ngoài Mỹ đã cấm BGH vì lo ngại về sự an toàn. Một trong những vấn đề với việc cho thêm các phân tử lạ vào cơ thể bò sữa là những phân tử đó thường đi ra trong sữa. Tôi không biết bạn cảm thấy thế nào nhưng tôi không muốn thử nghiệm hấp thụ một hormone tăng trưởng vào người. Một vấn đề có liên quan là nó làm tăng đáng kể (50% đến 70%) tỷ lệ viêm vú ở bò. Những con bò đó lại được chữa bằng kháng sinh và dư lượng kháng sinh xuất hiện trong sữa. Có vẻ công chúng không thoải mái lắm với sản phẩm này và trong một cuộc khảo sát, 43% cảm thấy hormone tăng trưởng trong sữa là một nguy cơ về sức khỏe. Vì lý do đó, một phó giám đốc phụ trách quan hệ công chúng ở Monsanto phản đối việc ghi nhãn bởi vì ghi nhãn sẽ tạo ra một ‘sự phân biệt giả tạo’.
Bất cứ động vật cho con bú nào cũng thải chất độc trong cơ thể qua sữa của nó. Chất độc ở đây bao gồm thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu, hóa chất và hormone. Và tất cả sữa bò đều chứa máu ! Các thanh tra an toàn thực phẩm chỉ có nhiệm vụ giữ nó ở dưới một giới hạn nhất định. Bạn có thể thấy sợ hãi khi biết rằng Bộ Nông nghiệp Mỹ cho phép sữa chứa 1 đến 1,5 triệu tế bào máu trắng trên một ml. Nếu bạn chưa biết thì tôi xin lỗi vì phải nói với bạn rằng một cách gọi khác của tế bào máu trắng là mủ. Vậy đó. Sữa là tinh khiết hay là một dung dịch hóa chất, vi khuẩn và các sản phẩm sinh học ? Và Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) có bảo vệ bạn không ? Văn phòng Thống kê Mỹ (GAO) cho chúng ta biết FDA và chính quyền các bang không bảo vệ công chúng khỏi dư lượng thuốc trong sữa. Họ chỉ kiểm tra 4 trong số 82 loại dược phẩm có trong sữa bò.
Như bạn có thể hình dung, phát ngôn viên của ngành công nghiệp sữa vẫn tuyên bố nó tuyệt đối an toàn. Jerome Kozak nói ‘Tôi vẫn nghĩ rằng sữa là sản phẩm an toàn nhất mà chúng ta có.’
Những nhà quan sát ít thiên vị hơn đã phát hiện ra điều sau đây: 38% mẫu sữa trong 10 thành phố bị nhiễm thuốc sulfa hay một loại kháng sinh khác. (Đây là từ Trung tâm Khoa học vì Lợi ích Cộng đồng và tạp chí Phố Wall (The Wall Street Journal) 29/12/1989) Một nghiên cứu tương tự ở Washington DC phát hiện tỷ lệ nhiễm thuốc là 20% (Nutrition Action Healthletter, 4/1990).
Điều gì đang xảy ra ở đây ? Khi FDA kiểm tra sữa, họ hầu như không phát hiện vấn đề gì. Tuy nhiên, họ sử dụng những tiêu chuẩn rất lỏng lẻo. Khi họ dùng cùng một tiêu chí, số liệu FDA cho thấy 51% số mẫu sữa có dấu vết dược phẩm.
Một chủ đề khó chịu cần thảo luận thêm là có vẻ như các con bò sữa liên tục bị nhiễm trùng quanh vú và cần chữa trị bằng kháng sinh. Một bài báo từ Pháp cho chúng ta biết khi một con bò dùng penicillin, penicillin xuất hiện trong 4 trong 7 mẫu sữa được vắt. Một nghiên cứu khác từ trường Đại học Nevada, Reno cho biết có những tế bào lạ trong sữa của những con bò bị viêm vú. Một phân tích cẩn thận đã được tiến hành trên những tế bào này sử dụng nhiều công nghệ tiên tiến. Bạn có biết kết luận là gì không ? Nếu con bò bị viêm vú, sẽ có mủ trong sữa. Xin lỗi, nó ở cả trong các nghiên cứu, chỉ có điều được che giấu sau những thuật ngữ chuyên môn.
Chú thích: Còn một đoạn dài trong nguyên bản đề cập đến rất nhiều vấn đề khác trong sữa bò. Do thời gian hạn hẹp, tôi không dịch đoạn đó mà đi thẳng tới phần sau.
Được rồi, vậy sữa bò có lợi ích gì ?
Liệu có bất cứ lý do sức khỏe nào khiến một người lớn cần uống sữa bò không ?
Rất khó để tôi có thể tìm ra thậm chí một lý do chính đáng ngoài sở thích cá nhân. Nhưng theo tôi, nếu bạn cố tìm, hai cái sau sẽ là những lý do tốt nhất : sữa là nguồn cung cấp canxi và nó là nguồn cung cấp axit amin (protein).
Hãy xem xét canxi trước. Tại sao chúng ta lại quan tâm đến canxi. Hiển nhiên là chúng ta muốn phát triển khung xương mạnh và phòng tránh chứng loãng xương. Và đúng là sữa chứa đầy canxi, không chút nghi ngờ nào về điểm đó. Nhưng đó có phải là một nguồn canxi tốt cho người không ? Tôi không nghĩ thế và có lý do của nó. Hấp thụ quá nhiều sản phẩm sữa trên thực tế cản trở việc hấp thụ canxi. Lượng protein dư thừa trong sữa là một nguyên nhân chính cho vấn đề loãng xương. Bác sĩ Hegsted ở Anh đã viết trong nhiều năm về phân bố địa lý của chứng loãng xương. Có vẻ những nước tiêu thụ sản phẩm sữa nhiều nhất bao giờ cũng là những nước với tỷ lệ loãng xương cao nhất. Ông cảm thấy sữa là một nguyên nhân cho chứng loãng xương. Vì những lý do sau.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mức độ hấp thụ canxi và đặc biệt là uống bổ sung canxi từ thuốc không có chút ảnh hưởng gì đến sự phát triển của chứng loãng xương. Bài báo quan trọng nhất về vấn đề này xuất hiện gần đây trong Tạp chí Y học Anh (British Journal of Medicine) nơi mà cánh tay dài của ngành công nghiệp sữa Mỹ không với tới. Một nghiên cứu khác ở Mỹ trên thực tế cho thấy cân bằng canxi trở nên xấu đi ở những phụ nữ hậu mãn kinh uống 200 ml sữa bò mỗi ngày (Tạp chí Dinh dưỡng Lâm sàng Mỹ, (American Journal of Clinical Nutrition) 1985). Ảnh hưởng của hormone, giới tính, trọng lượng trên những xương chính và đặc biệt là lượng protein hấp thụ đều rất quan trọng. Một lưu ý khác có thể có ích cho phân tích của chúng ta là sự vắng mặt của bất cứ tài liệu nào về sự thiếu hụt canxi trong những người sống với một chế độ ăn tự nhiên không có sữa.
Để tìm ra chìa khóa cho câu đố về chứng loãng xương, đừng nhìn vào canxi, hãy nhìn vào protein. Thử xem hai nhóm đối lập sau. Những người Eskimo ăn rất nhiều protein, ước tính 25% tổng số calorie. Họ cũng hấp thụ canxi rất nhiều : 2500 mg mỗi ngày. Tỷ lệ loãng xương của họ ở trong nhóm tồi tệ nhất trên thế giới. Nhóm còn lại là những người Bantus ở Nam Phi. Lượng protein họ hấp thụ chỉ chiếm 12% tổng số calorie, chủ yếu là từ thực vật, và chỉ 200-350 mg canxi mỗi ngày, khoảng một nửa lượng canxi trung bình của một người phụ nữ Mỹ. Những người phụ nữ Bantus hầu như không biết đến loãng xương mặc dù có đến 6 đứa con hay nhiều hơn nữa và cho chúng bú trong thời gian dài. Khi những người phụ nữ châu Phi này nhập cư vào Mỹ, họ có phát triển chứng loãng xương không ? Câu trả lời là có, nhưng không nhiều như phụ nữ da trắng hay châu Á. Vậy là có cả yếu tố di truyền ở đây nữa.
Nhiều người tất nhiên đặt câu hỏi ‘Vậy bạn lấy canxi ở đâu ?’ Câu trả lời là : ‘Ở cùng một chỗ mà con bò lấy canxi của nó, từ những thứ màu xanh mọc lên từ đất’, chủ yếu là rau lá. Voi, tê giác cũng phát triển những bộ xương khổng lồ của chúng (sau khi đã cai sữa) bằng cách ăn lá cây xanh, ngựa cũng vậy. Các động vật ăn thịt sống tốt mà không cần rau xanh. Có vẻ như tất cả các động vật có vú trên trái đất này sẽ sống tốt nếu chúng sống hòa hợp với các yếu tố di truyền và thức ăn tự nhiên của chúng. Chỉ có con người với cuộc sống giàu có bị tỷ lệ loãng xương cao.
Nếu những con thú ấy không làm bạn tin tưởng, hãy nghĩ về hàng tỷ người trên trái đất chưa từng biết đến sữa bò. Bạn có nghĩ là chứng loãng xương sẽ phổ biến trong số những người này không ? Những người làm cho ngành công nghiệp sữa sẽ nói vậy nhưng sự thật là hoàn toàn ngược lại. Tỷ lệ loãng xương của họ ít hơn nhiều so với các nước tiêu thụ nhiều sữa. Đây là chủ đề của một bài khác, nhưng tôi chỉ muốn nói rằng nguyên nhân quyết định của chứng loãng xương là sự hấp thụ protein quá nhiều và việc ít sử dụng các xương chính trong cơ thể xảy ra trong nhiều năm. Hormone có vai trò phụ nhưng cũng đáng kể ở phụ nữ. Sữa là một cản trở trên con đường đến với sức khỏe xương tốt.
Câu chuyện hoang đường về protein
Bạn có nhớ khi còn bé tất cả người lớn đều bảo bạn ‘phải ăn thật nhiều protein’. Khi tôi còn bé, protein được coi là người bạn dinh dưỡng. Và dĩ nhiên sữa là rất phù hợp.
Với protein, sữa đúng là một nguồn cung cấp dồi dào, còn được gọi là ‘thịt lỏng’. Tuy nhiên, cái đó không nhất thiết là điều chúng ta cần. Trên thực tế, nó là một lý do gây hại cho chúng ta. Gần như tất cả người Mỹ ăn quá nhiều protein.
Đối với thông tin này, chúng ta dựa vào nguồn đáng tin cậy nhất mà tôi biết. Đó là phiên bản mới nhất, (xuất bản 1/1992) của bản Khuyến nghị về Tiêu chuẩn Dinh dưỡng (Recommended Dietary Allowances) phát hành bởi Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia (National Research Council). Chủ biên của công trình quan trọng này là tiến sĩ Richard Havel của trường Đại học California ở San Francisco.
Điều đầu tiên cần lưu ý là lượng protein khuyến nghị đã được sửa giảm dần sau mỗi phiên bản. Khuyến nghị hiện hành là 0,75g/kilo/ngày cho người lớn 19 đến 51 tuổi. Đối với một người 60kg, nó chuyển đổi thành 45g/ngày. Bạn cũng nên biết ước tính nhu cầu protein cho người lớn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là 0,6g/kilo/ngày. Nếu bạn thuộc loại thích tăng thêm một chút để ‘cho chắc ăn’, nhớ là tất cả những khuyến nghị này đều đã có cộng thêm vào mức tối thiểu vì lý do an toàn. Bạn có thể sống khỏe mạnh chỉ với 28-30g/ngày nếu cần thiết.
45 g protein mỗi ngày là một lượng rất nhỏ. Thêm vào đó, protein không nhất thiết phải là protein động vật. Protein thực vật gần như giống hệt cho mọi nhu cầu thực tế. Vì thế hầu như tất cả người Mỹ, Canada, Anh và châu Âu đều ở trong tình trạng quá tải protein. Điều này khi được duy trì trong hàng thập kỷ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Những vấn đề đã được đề cập đến là loãng xương, xơ vữa động mạch và suy thận. Có nhiều bằng chứng rằng một số loại ung thư, chủ yếu ở đại tràng và trực tràng có liên quan đến việc tiêu thụ thịt quá mức. Barry Brenner, một nhà nghiên cứu về thận nổi tiếng, là người đầu tiên chỉ ra mối nguy hiểm của việc hấp thụ protein quá mức đối với thận. Cuối cùng, bạn nên biết rằng tỷ lệ protein trong sữa mẹ là 0.9%, thấp nhất trong các loài động vật có vú.
Thế đã hết chưa ?
Xin lỗi, vẫn còn nữa. Bạn có nhớ lactose không ? Đấy là chất carbohydrate (đường) chính trong sữa. Có vẻ như thiên nhiên cung cấp cho trẻ sơ sinh những enzyme cần thiết để chuyển hóa lactose, nhưng khả năng này biến mất vào độ tuổi 4 hoặc 5.
Có vấn đề gì với lactose hay đường sữa ? Có vẻ nó là một phân tử saccharide đôi quá lớn để có thể đi qua thành ruột vào máu. Để làm vậy, nó cần phải được chia thành hai phân tử saccharide đơn là galactose và glucose. Việc này cần sự có mặt của một enzyme là lactase và một số enzyme khác nữa để chuyển hóa galactose thành glucose.
Thử nghĩ về điều này một chút. Thiên nhiên cho chúng ta khả năng chuyển hóa lactose trong vài năm rồi tắt cơ chế ấy đi. Có phải Mẹ Thiên nhiên muốn bảo chúng ta điều gì đó không ? Rõ ràng là tất cả trẻ sơ sinh đều phải uống sữa. Việc rất nhiều người lớn không uống được sữa có vẻ như liên quan đến xu hướng của tự nhiên là xóa bỏ những cơ chế không cần thiết. Ít nhất một nửa số người lớn trên trái đất này không dung nạp được lactose. Những người da trắng có xu hướng dung nạp lactose tốt hơn người da màu.
Tỷ lệ này thế nào ? Trong một số nhóm người, cụ thể là người da đen, có đến 90% người lớn không dung nạp được lactose. Tỷ lệ đó ở người da trắng là 20% đến 40%. Người phương Đông ở vào khoảng giữa hai nhóm. Tiêu chảy, đầy bụng, đau bụng là điều thường xảy ra nếu những người này uống một lượng lớn sữa. Hầy hết những người da đỏ châu Mỹ không uống được sữa. Ngành công nghiệp sữa thừa nhận là hiện tượng không dung nạp lactose làm khoảng 50 triệu người Mỹ khổ sở. Cả một ngành công nghiệp phục vụ những người không dung nạp lactose đã mọc lên và có doanh thu $117 triệu trong năm 1992 (Time 17/05/1993).
Mối liên quan giữa sữa và chứng thiếu máu và chảy máu thành ruột ở trẻ sơ sinh được mọi bác sĩ biết đến. Nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu hụt chất sắt trong sữa và khả năng gây kích thích thành ruột của sữa. Các tài liệu nghiên cứu nhi khoa có đầy những bài báo mô tả thành ruột bị kích thích, chảy máu, tăng tính thẩm thấu cũng như chứng đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa ở những đứa trẻ nhạy cảm với sữa bò. Cả hai yếu tố mất máu qua chảy máu thành ruột và thiếu hụt sắt trong sữa góp phần gây ra chứng thiếu máu. Sữa cũng là nguyên nhân hàng đầu của dị ứng ở trẻ em.
Sữa chất béo thấp
Một chủ đề nữa : sữa ‘chất béo thấp’. Một câu hỏi chân thành thường gặp là : ‘Vậy thì sữa chất béo thấp là ổn phải không ?’
Câu trả lời cho câu hỏi này là sữa chất béo thấp thực ra không ít chất béo. Thuật ngữ ‘chất béo thấp’ là một thuật ngữ tiếp thị để lừa bịp công chúng. Sữa chất béo thấp chứa 24% đến 33% chất béo trong tổng số calorie ! Con số 2% là để đánh lạc hướng. Con số đó là chỉ tỷ lệ về khối lượng. Họ không nói với bạn rằng, về khối lượng, sữa chứa 87% nước !
‘Vậy thì, đồ phá đám, anh hẳn phải chấp nhận sữa không béo !’ Tôi nghe câu này khá nhiều. Đúng, sữa không béo hầu như không có chất béo, nhưng bạn vẫn phải nhận lượng lớn protein và lactose. Nếu có cái gì đó mà chúng ta không cần thêm nữa, đó là lactose, một loại đường đơn cấu thành từ galactose và glucose. Hàng triệu người Mỹ không dung nạp lactose như đã nói ở trên. Đối với protein, cũng như đã nói ở trên, chúng ta sống trong một xã hội thường xuyên hấp thụ nhiều protein hơn rất nhiều so với lượng cần thiết. Đó là gánh nặng cho cơ thể, đặc biệt là thận và là nguyên nhân chính của chứng loãng xương.
Tóm tắt
Theo tôi nghĩ, chỉ có một lý do hợp lệ để uống sữa hay dùng sản phẩm sữa. Đó là vì chúng ta thích thế. Bởi vì chúng ta thích thế và nó đã trở thành một phần văn hóa của chúng ta. Bởi vì chúng ta đã quen với mùi vị của nó. Bởi vì chúng ta thích cảm giác nó trôi xuống cổ họng. Bởi vì cha mẹ chúng ta làm mọi cách có thể để cung cấp sữa cho chúng ta từ thời thơ ấu và luyện cho chúng ta quen với nó. Họ dạy chúng ta thích nó. Và rồi lý do tốt nhất có lẽ là kem ! Tôi đã từng nghe nó được mô tả là ‘ăn rồi chết cũng sướng’.
Tôi có một bệnh nhân đã làm đúng như vậy. Anh ta không có tật xấu nào. Anh ta không hút thuốc hay uống rượu, anh ta không ăn thịt. Chế độ ăn uống và cách sống của anh ta gần như là hoàn hảo cho sức khỏe. Nhưng anh ta có một niềm đam mê. Bạn đã đoán được rồi đó, anh ta mê kem béo ngậy. Nửa lít kem loại béo nhất trong một ngày là ít đối với anh ta. Nhiều lần anh ta ăn cả lít – vâng, và còn thêm bánh quy và các loại bánh ngọt khác nữa. Rốt cuộc thì kem ngon xứng đáng được vậy. Anh ta có vẻ có sức khỏe tốt, ngoại trừ một ‘căn bệnh tuổi trung niên’ thông thường nào đó một lần khiến anh bị đột quy và liệt toàn thân. Sau đó anh ta bị đột quy thêm vài lần nữa và qua đời vài năm sau đó trong bệnh viện. Tuổi già ư ? Tôi không nghĩ thế. Anh ta chỉ hơn 50.
Vì vậy, đừng uống sữa vì sức khỏe. Tôi hoàn toàn tin tưởng từ những bằng chứng khoa học rằng sữa không ‘tốt cho cơ thể’. Thêm sữa vào thực đơn của bạn chỉ làm giảm giá trị dinh dưỡng và mức độ an toàn của nó.
Hầu hết mọi người trên hành tinh này sống rất khỏe mạnh mà không cần đến sữa bò. Bạn cũng có thể làm thế.
Đúng là khó thay đổi. Chúng ta đã được luyện từ bé để coi sữa là ‘thức ăn hoàn hảo nhất của tự nhiên’. Nhưng tôi đảm bảo với bạn là thay đổi là an toàn, sẽ cải thiện sức khỏe của bạn và không làm bạn mất đồng nào cả. Bạn còn muốn gì ?
Một nghiên cứu phát hiện thấy những lợi ích bất ngờ ở những cặp ôm hôn nhiều.
Floyd và các cộng sự của ông muốn biết khi gia tăng tần suất hôn nhau ở các cặp yêu nhau thì có liên quan như thế nào đến những dấu chỉ về stress và hạnh phúc nói chung của họ. Họ nghiên cứu các cặp đã kết hôn và đang hẹn hò, chung sống với nhau trọn ngày. Qua khoảng thời gian dài 6 tuần, một nửa số cặp được hướng dẫn: “Trong 6 tuần tiếp theo, chúng tôi muốn bạn và bạn tình của bạn hôn nhau thường xuyên hơn so với bình thường các bạn làm. Đầu tiên, các bạn có thể dành vài phút mỗi ngày cho việc ôm hôn. Theo thời gian, bạn có thể sẽ thấy việc đó trở thành một phần sinh hoạt hằng ngày trong cách thức các bạn tương tác. Điều cốt yếu là hai bạn hôn nhau thường xuyên hơn và trong khoảng thời gian lâu hơn so với bình thường.”
Dù một số yếu tố đã được xem xét, thì họ phát hiện thấy những sự khác biệt quan trọng ở những người tham gia nghiên cứu về sự thỏa mãn với mối quan hệ, những mức độ stress và cholesterol. Cụ thể là, qua 6 tuần, những người tăng tần suất hôn nhau thông báo về sự sụt giảm mức độ stress và mức độ thỏa mãn về mối quan hệ cao hơn. Và quan trọng là, mức cholesterol của họ trong máu cũng giảm.
Trong thực tế, các bác sỹ thường khuyên mọi người nỗ lực làm giảm mức cholesterol thông qua chế độ ăn uống và tập thể dục. Nghiên cứu này bổ sung thêm một hoạt động thú vị hơn để giảm cholesterol đó là ôm hôn.
Còn nếu 1 người Việt sang sống ở nhật thì có khả năng trả lại ví tiền.
Người Nhật ko đạo đức hơn người Việt Nam và những người nước khác. Họ có hành vi trung thực vì họ được sống ở một xã hội ủng hộ sự trung thực.
Gởi từ ứng dụng Webtretho trên iPad
Vì bạn quen ăn thịt, càng ăn nên càng thèm và càng khó bỏ. Theo thời gian thì bạn sẽ càng ăn thịt nhiều hơn. Và để bớt phụ thuộc vào thịt thì bạn có thể giảm số lượng tiêu thụ từ từ và tăng ăn rau để nó thành thói quen.
Tham khảo:
What a Dog’s Tail Wags Really Mean: Some New Scientific Data
Specific tail wags provide information about dogs’ emotional state.
Published on December 5, 2011 by Stanley Coren, Ph.D., F.R.S.C. in Canine Corner
Khoa học luôn luôn cung cấp những thông tin mới cho phép chúng ta diễn giải những hành vi của chó, hoặc tái diễn giải lại những hành vi mà trước đây chúng ta nghĩ là mình hiểu rất rõ, ví dụ như ý nghĩa của việc vẫy đuôi của 1 con chó.
Có lẽ sự hiểu lầm phổ biến nhất về chó là cho rằng 1 cái vẫy đuôi của chó thể hiện hạnh phúc và thân thiện. Quả thật, 1 số kiểu vẫy đuôi gắn liền với hạnh phúc, những kiểu khác thì có nghĩa là sợ hãi, bất an, 1 thách thức xã hội hoặc là 1 sự cảnh báo rằng nếu bạn lại gần, bạn có thể bị cắn.
Vẫy đuôi đáp ứng những chức năng giao tiếp cũng giống như 1 nụ cười ở con người, 1 lời chào lịch sự hoặc 1 cái gật đầu khi nhận ra ai đó. Những nụ cười là những dấu hiệu xã hội và do đó được dành riêng cho hầu hết những tình huống có ai đó xung quanh để nhìn thấy chúng. Đối với chó, vẫy đuôi dường như có cùng những tính chất như vậy. 1 chú chó chỉ vẫy đuôi khi có những sinh thể khác xung quanh, ví dụ, 1 con người, 1 con mèo, 1 con chó, 1 con ngựa hoặc 1 quả bóng bị gió làm cho di chuyển và trông giống như sinh thể sống. Khi chó ở một mình, nó sẽ không vẫy đuôi, theo cách tương tự, con người không nói chuyện với cái tường.
Cũng giống như bất kỳ ngôn ngữ nào khác, những kiểu vẫy đuôi có vốn từ vựng và ngữ pháp cần được hiểu. Hiện nay, các nhà khoa học tập trung vào 2 nguồn thông tin chính, được gọi là kiểu chuyển động của đuôi và vị trí của đuôi. Tuy nhiên, dữ liệu mới bổ sung thêm 1 chiều kích thứ ba để hiểu được ngôn ngữ của đuôi chó.
Sự chuyển động là 1 khía cạnh rất quan trọng của tín hiệu. Mắt chó rất nhạy cảm với sự chuyển động hơn là với những chi tiết hoặc màu sắc, vì vậy 1 cái đuôi chuyển động là rất rõ ràng đối với những con chó khác. Sự tiến hoá còn làm cho những cái đuôi trở nên nổi bật hơn nữa, ví dụ những cái đuôi với 1 đầu sáng hoặc 1 đầu tối, hình dạng rậm rạp.
Vị trí của đuôi, cụ thể là chiều cao của đuôi có thể được xem là 1 dụng cụ đo cảm xúc. Chiều cao đuôi trung bình cho thấy con chó đang thư giãn. Nếu chiều cao đuôi bằng với chiều ngang, con có đang tập trung và cảnh giác. Khi cái đuôi tiếp tục di chuyển lên, đó là 1 dấu hiệu con chó đang trở nên ngày càng đe doạ hơn, và 1 cái đuôi thẳng đứng là dấu hiệu thống trị rõ ràng, nghĩa là 'Ta là ông chủ ở đây', hoặc là 1 lời cảnh báo, 'Biến đi hoặc sẽ lãnh hậu quả'.
Vị trí đuôi hạ xuống thấp hơn, đó là 1 dấu hiệu con chó đang trở nên ngoan ngoãn, đang lo lắng hoặc cảm thấy không khỏe. Biểu hiện cực đoan là dấu đuôi bên dưới cơ thể, là 1 dấu hiệu sợ hãi, nghĩa là 'Làm ơn đừng làm tổn thương tôi.'
Nếu ngôn ngữ con người có những tiếng địa phương khác nhau thì ngôn ngữ đuôi chó cũng có nhiều 'tiếng địa phương'. Những giống chó khác nhau thì mang theo cái đuôi ở những độ cao khác nhau, từ vị trí gần như thẳng đứng của chó Beagles và Terriers đến những cái đuôi thấp hơn của chó Greyhounds và Whippets.
Những chuyển động đuôi bổ sung thêm ý nghĩa cho các dấu hiệu. Tốc độ vẫy đuôi cho thấy con có đang phấn khích như thế nào. Trong khi đó, chiều rộng quét đuôi tiết lộ trạng thái cảm xúc của chó là tích cực hay tiêu cực.
Kết quả là, có nhiều kiểu kết hợp, bao gồm những kiểu chuyển động đuôi phổ biến sau:
1 cái vẫy đuôi nhẹ thường được xem là lời chào
1 cái vẫy đuôi rộng là sự thân thiện; 'Tôi không đe doạ bạn.' nó cũng có thể có nghĩa là 'Tôi đang hài lòng'.
1 cái vẫy chậm và đuôi rủ xuống là dấu hiệu ít tính xã hội. Nói chung, những cái vẫy đuôi chậm (không phải kiểu vẫy cao thống trị cũng như kiểu vẫy thấp phục tùng) là những dấu hiệu của sự bất an.
Những chuyển động nhỏ, tốc độ cao tạo ấn tượng cái đuôi đang rung là những dấu hiệu cho thấy con chó đang chuẩn bị làm gì đó, thường là bỏ chạy hoặc chiến đấu. Nếu cái đuôi ở vị trí cao khi đang rung, nó có khả năng cao là 1 mối đe doạ thực sự.
Khi con chó cảm thấy tích cực về điều gì hoặc ai đó, nó vẫy đuôi về phía bên phải, và khi có những cảm xúc tiêu cực, nó vẫy đuôi về bên trái.
Giorgio Vallortigara, 1 nhà khoa học thần kinh tại trường đại học Trieste ở Italy, và 2 bác sĩ thú ý Angelo Quaranta và Marcello Siniscalchi ở đại học Bari đã viết 1 bài báo mô tả hiện tượng này trên tờ tạp chí 'Current Biology'. Các nhà nghiên cứu đã tuyển 30 giống chó vật nuôi khác nhau và đặt chúng trong 1 cái lồng được trang bị máy quay có thể theo dõi chính xác những góc vẫy đuôi của chó. Sau đó họ chiếu 4 kích thích trước lồng: chủ của chó; 1 người xa lạ; 1 con mèo; và 1 con chó lạ, có tính thống trị.
Khi những con chó nhìn thấy những người chủ của chúng, tất cả những cái đuôi của chúng vẫy mạnh thiên về phía bên phải của cơ thể của chúng, trong khi 1 người xa lạ làm những cái đuôi của chúng vẫy vừa phải ở phía bên phải. Nhìn thấy con mèo, những cái đuôi chó 1 lần nữa vẫy nhiều hơn về phía bên phải nhưng chậm hơn và với những cử động hạn chế. Tuy nhiên, trước dấu hiệu của 1 con chó lạ và xung hấn làm cho những cái đuôi vẫy về phía bên trái của chúng.
Điều quan trọng là chúng ta đang nói về phía bên phải hoặc bên trái của con chó từ góc độ bạn nhìn theo hướng mà con chó nhìn. Điều đó có nghĩa là, nếu bạn đang đối mặt với 1 con chó vẫy đuôi về phía bên phải của bạn tức là chó vẫy đuôi về phía bên trái của nó.
Nghiên cứu cho thấy, ở nhiều động vật, bao gồm chim, ếch, khỉ và người, não trái chuyên về những hành vi (được các nhà khoa học gọi là) tiếp cận và bình thản. Ở người, nó có nghĩa là não trái gắn liền với những cảm xúc tích cực, như yêu thương, 1 cảm giác gắn bó, an toàn và bình tĩnh. Nó cũng gắn liền với những dấu hiệu sinh lý như nhịp tim chậm. Não phải chuyên về những hành vi bao gồm sự rút lui và tiêu dùng năng lượng. Ở người, những hành vi như bỏ chạy gắn liền với những cảm xúc như sợ hãi và phiền muộn. Những dấu hiệu sinh lý bao gồm nhịp tim nhanh và hệ thống tiêu hoá tạm ngừng hoạt động.
Vì não trái kiểm soát phần cơ thể phía bên phải và não phải kiểm soát phần cơ thể bên trái, sự hoạt động ở 1 nửa bên não cho thấy những vận động ở phần cơ thể ngược lại. Ví dụ, gà con thích dùng mắt phải để tìm kiếm thức ăn (hành vi tiếp cận) và mắt trái để quan sát thú săn mồi (tránh né). Ở người, các cơ bên phải khuôn mặt có xu hướng phản ánh sự hành phúc (não trái) trong kh các cơ bên trái khuôn mặt phản ánh sự bất hạnh (não phải). Vì vậy, chúng ta có thể bổ sung điều này cho những cảm xúc tích cực làm cho vẫy đuôi về bên phải và cảm xúc tiêu cực làm đuôi vẫy bên trái.
Chúng ta thường nghĩ rằng sự tức giận là 1 cảm xúc tiêu cực, hoang dã, nhưng nghiên cứu tâm lý học đã phát hiện ra rằng tức giận cũng có những khía cạnh tốt đẹp của nó.
Mặc dù con người có những lý do hợp lý để tránh nổi giận. Sự tức giận không chỉ làm bạn cảm thấy tệ mà nó khiến bạn làm những thứ ngu ngốc mà không lường trước những rủi ro và nó có thể mang tính hủy hoại bản thân.
Do vậy con người văn minh cố gắng hết sức để kìm nén, chuyển hướng và che đậy cơn phẫn nộ của họ. Phần lớn chúng ta đối xử với cơn phẫn nộ của mình như thể nó là 1 cái gì đó vô lý, không được phép bộc lộ, không thể nói ra được. Nhưng cũng như tất cả những cảm xúc khác, sự tức giận cũng có những mục đích của nó, nó có thể được dùng để đem lại ảnh hưởng tốt.
1. Tức giận là 1 động lực thúc đẩy
Bạn thỉnh thoảng có thể nghe mọi người nói rằng hãy sử dụng cơn tức giận, phẫn nộ của mình như là 1 động lực thúc đẩy bằng cách “ chuyển sự tức giận thành năng lượng tích cực” ( turning anger into positive energy ).
Thực tế, bản thân sự tức giận là 1 loại năng lượng tích cực và là 1 động lực thúc đẩy mạnh mẽ. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tức giận có thể thúc đẩy chúng ta hướng đến mục tiêu, đối mặt với những rắc rối và những trở ngại.
Trong 1 nghiên cứu, người tham gia được xem những vật thể mà họ gắn liền với 1 phần thưởng. Khi chúng ta thấy 1 thứ gì đó có lợi, chúng ta muốn thứ đó nhiều hơn khi chúng ta tức giận. Do đó, khi sử dụng sự tức giận đúng đắn, mang tính xây dựng thì sự tức giận có thể làm bạn cảm thấy mạnh mẽ và nó thúc đẩy bạn giành lấy thứ bạn muốn.
2. Những người tức giận thường lạc quan hơn.
Nghe có vẻ kỳ quặc , nhưng những người tức giận có 1 vài điểm giống với những người hạnh phúc. Đó là vì cả hai đều có xu hướng lạc quan hơn. Một nghiên cứu về nỗi sợ khủng bố sau thảm họa 11/9 tại Mỹ. Trong nghiên cứu này, những người trải nghiệm sự tức giận, phẫn nộ thường kỳ vọng sẽ ít có những cuộc tấn công, khủng bố hơn trong tương lai ( Lerner , 2003 ). Ngược lại, những người trải nghiệm nhiều nỗi sợ hãi thường có xu hướng bi quan hơn về tương lai và kỳ vọng sẽ có nhiều cuộc khủng bố trong tương lai.
3. Sự tức giận có thể mang lại lợi ích cho các mối quan hệ.
Sự tức giận là 1 phản ứng tự nhiên khi bị đối xử bất công bởi 1 người nào đó và tức giận là 1 cách truyền thông với người khác về cảm giác bất công. Nhưng xã hội chúng ta cho rằng sự tức giận là nguy hiểm và chúng ta nên che dấu nó.
1 nghiên cứu của Baumeister ( 1990 ) chỉ ra rằng : việc che dấu tức giận trong những mối quan hệ tình cảm có thể gây bất lợi. Vấn đề là khi bạn che dấu cơn giận của mình, người bạn đời của bạn sẽ không biết được họ đã làm sai điều gì. Và họ sẽ vẫn tiếp tục làm điều đó. Và nó sẽ không tốt cho mối quan hệ của bạn.
Việc bộc lộ sự tức giận, phẫn nộ, nếu bạn thấy nó xứng đáng và hướng đến việc tìm kiếm 1 giải pháp thay vì chỉ đổ lỗi, xả giận, có thể thực sự hữu ích và làm vững mạnh những mối quan hệ.
4. Sự tức giận mang lại sự bừng ngộ nội tâm ( self-insight )
Nếu chúng ta cho phép bản thân được nổi giận thì sự tức giận có thể mang lại sự bừng ngộ nội tâm trong chúng ta.
Nghiên cứu của Kassinove ( 1997) : Những người Mỹ, người Nga được hỏi về những cơn giận, cơn thịnh nộ gần đây của họ đã ảnh hưởng như thế nào đến họ. 55% nói rằng sự tức giận mang lại 1 kết quả tích cực. Lý do hàng đầu mà 1/3 số người nói rằng sự tức giận mang lại 1 sự bừng ngộ trong họ về những lỗi lầm của chính họ.
Nếu chúng ta có thể để ý khi nào chúng ta nổi giận và tại sao tức giận thì sau đó chúng ta có thể học cách nâng cao cuộc sống của mình. Sự tức giận có thể thúc đẩy việc thay đổi bản thân.
5. Sự tức giận làm giảm bạo lực
Mặc dù sự tức giận thường đi trước bạo lực thân thể, nó cũng có thể là 1 cách để giảm bạo lực. Vì sự tức giận là 1 dấu hiệu cảnh báo về 1 tình huống cần phải giải quyết . Khi người khác nhìn thấy dấu hiệu tức giận, họ sẽ có nhiều động lực để xoa dịu người tức giận.
Hãy tưởng tượng về 1 thế giới mà ở đó không có sự tức giận, con người không có cách thức nào để bộc lộ cho mọi người biết họ đang cảm thấy như thế nào về sự bất công. Liệu họ có thể tiến hành ngay lập tức những hành vi bạo lực không ?
6. Sự tức giận như là 1 chiến lược đàm phán.
tức giận có thể là 1 cách hợp pháp để có những gì bạn muốn. Có 1 vài bằng chứng cho thấy sự tức giận có thể được sử dụng như là 1 chiến lược đàm phán, nhưng nó phức tạp hơn vậy. Bạn không thể cứ điên tiết lên và kỳ vọng đạt được mọi điều bạn muốn. Sự tức giận có hiệu quả nhất khi nó xứng đáng, hợp lý, nếu bạn xuất hiện với vẻ ngoài mạnh mẽ, uy lực và khi quyền lựa chọn của phía bên kia bị giới hạn.
Nguồn: tamlyhoc.net