Lỵ amip là một chứng bệnh tiêu hóa khá phổ biến ở nước ta, căn bệnh này nguy hiểm hơn bệnh lỵ và tả thông thường. Trong nhiều trường hợp bệnh nặng gây xuất huyết ruột, mất máu và không thể điều trị được dẫn tới tử vong. Để loại bỏ chứng bệnh nguy hiểm này, các bác sĩ Đông – Tây y đã nghiên cứu và tìm ra được phương pháp chữa lỵ amip bằng thảo dược mộc hoa trắng. Người ta thường dùng cao mộc hoa trắng hoặc dùng trực tiếp vỏ, hạt của nó làm thuốc chữa lỵ amip.


Các triệu chứng của bệnh lỵ amip


Các triệu chứng của bệnh lỵ amip có thể bao gồm đau bụng, tiêu chảy, hoặc tiêu chảy ra máu. Các biến chứng có thể bao gồm viêm đại tràng do tổn thương mô hoặc thủng và nguy cơ gây viêm phúc mạc.


Entamoeba histolytica có thể tồn tại dưới hai hình thức trong thức ăn và thức uống bị ô nhiễm như trophozoites và u nang nhiễm khuẩn lây lan qua phân của người nhiễm bệnh hoặc động vật bị nhiễm bệnh.


Nếu bạn nuốt thức ăn bị ô nhiễm có chứa amip miễn phí (trophozoites), hầu như không có gì xảy ra vì chúng thường chết ở dạ dày do tính axit.


Mặt khác, nang đặc biệt kháng với các chất có tính axit trong dạ dày, và thức ăn bị nhiễm bẩn là nguy cơ Khi các túi nang đến ruột của người khác, amip cá nhân được giải phóng khỏi nang và có thể gây nhiễm trùng.


Thành phần dược tính của cao mộc hoa trắng


Mộc hoa trắng là cây sừng trâu, cây mức lá to, thừng mực lá to, mức hoa trắng, mộc vài (Thổ), míc lông. Tên khoa học Holarrhena antidydenteria Wall thuộc họ trúc đào. Cây mọc nhiều ở các tỉnh miền bắc Việt Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, Hòa Bình và một số tỉnh khác. Loài thảo dược này còn được tìm thấy ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Malaixia.


Từ vỏ và hạt cây mộc hoa trắng người ta đã chiết xuất các ancaloit như: Conesin, Norconesin, Conesimin, Conesinidin, Conkurchin, Holarhenin.


Đặc biệt chất conesin có nhiều trong mộc hoa trắng, là tinh thể hình lăng trụ, tan trong dung dịch H2SO4, chất này rất ít độc. Với liều cao, tác dụng của nó gần giống với mocphin, nó gây liệt đối với trung tâm hô hấp. Nếu tiêm, nó gây tê tại chỗ nhưng lại kèm theo hiện tượng hoại thư do đó không dùng gây tê được.


Conesin kích thích sự co bóp ruột và tử cung. Trên lâm sàng, người ta dùng conesin clohydrat hay bromhydrat chữa lỵ amip. Hiệu lực như emetin lại hơn emetin ở chỗ ít độc và tiện dụng. Nó tác dụng cả đối với kén và amip, còn emetin chỉ tác dụng đối với amip. Hiện tượng không chịu thuốc rất ít hoặc không đáng kể.


Hạt và vỏ của mộc hoa trắng được dùng để làm thuốc chữa lỵ amip. Thường dùng dưới dạng bột, cồn thuốc hoặc cao lỏng. Do cao dược liệu mộc hoa trắng có tác dụng mạnh tới ruột và hệ tiêu hóa nên cần lưu ý liều lượng khi sử dụng chúng:


Bột vỏ ngày uống 10g


Bột hạt ngày uống 3 – 6g


Cao lỏng 1/1 ngày uống 1 – 3g


Cồn hạt (1/5) ngày uống 2 – 6g