@hoangyeen Mình nghĩ xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sống càng ngày càng cao, lòng tham của con người về tiền bạc và quyền lực cũng không thể tránh khỏi, nhất là khi nguồn tiền vào túi họ quá nhiều và quá dễ dàng và không có ai kiểm soát nữa. Do vậy, mọi người nên đề cao cảnh giác là tốt nhất. Trong mùa đại dịch lành ít dữ nhiều, mọi người giữ gìn sức khỏe cho bản thân và gia đình nhé! 💕 💕 💕 💕
@khaihoan631 Bạn nói đúng rồi. Tiền của mình thì mình tự QL. Thực ra, bảng sao kê có rất nhiều thông tin và dùng từ chuyên môn nhiều quá chưa chắc mọi người đều hiểu hết. Vừa rồi có chuyện bé xíu bánh mì có phải là thực phẩm không mà còn cãi nhau ì xèo rồi còn gì. Có những người chỉ đóng góp 100-200 ngàn chứng tỏ họ không có khả năng mà cũng ráng đóng góp. Như vậy, chỉ cần xác nhận đã nhận được tiền của họ và sẽ dùng vào việc gì là được rồi. Làm từ thiện trên quy mô lớn thì phải có tổ chức và lập kế hoạch rõ ràng, phải có người theo dõi và làm báo cáo tài chánh thu - chi, v.v. Vì vậy, các cá nhân hoặc tổ chức khi nhận trách nhiệm làm việc này thì phải tự lượng sức mình và phải hết sức thận trọng. Nếu họ liều tính tới đâu hay tới đó thì sẽ dẫn đến kết quả xấu thôi. Thay vì, họ bỏ ra 2-3 tháng để lên kế hoạch cụ thể mà cho thật tốt Dự án từ thiện của họ còn hơn là họ bỏ 1 năm để đi hầu tòa.
@haanh1287 Bạn tham khảo bài viết sau. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất trên thế giới. Kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê những năm gần đây cho thấy, phụ nữ Việt Nam chiếm khoảng 48% lực lượng lao động.Tổng quan nghiên cứuLao động nữ (LĐN) luôn là đối tượng được nhiều người quan tâm. Đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan đến LĐN, nhưng vấn đề nghiên cứu về hoàn thiện chính sách việc làm đối với LĐN ở Việt Nam hiện nay còn ít nghiên cứu đề cập sâu sắc và toàn diện. Bình đẳng giới trong lao động và việc làm gồm 3 nội dung chính: (i) Đảm bảo cơ hội ngang bằng cho cả nữ giới và nam giới trong lĩnh vực lao động và việc làm, bao gồm cơ hội trong việc tiếp cận các nguồn lực đầu tư cho “vốn con người”, các nguồn lực sản xuất, cơ hội được tham gia thị trường lao động và có được việc làm phù hợp với khả năng, sở thích và có thể phát huy hết tiềm năng của bản thân; (ii) Từng bước xóa bỏ những khác biệt trong vai trò và nhu cầu giới giữa nam và nữ không do đặc điểm sinh học khác gây nên, đồng thời bù đắp cho những bất lợi mà nữ giới hay nam giới phải chịu do những đặc tính sinh học tạo nên trong lĩnh vực lao động và việc làm. (iii) Kiên quyết loại bỏ sự phân biệt đối xử theo giới trong lĩnh vực lao động và việc làm, có nghĩa là xóa bỏ mọi rào cản để nữ giới và nam giới phát huy được tiềm năng của mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong lĩnh vực lao động, việc làm.Để tiếp cận thông qua nguồn số liệu thứ cấp từ phân tích thực trạng việc làm với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay, nhóm tác giả Tổng cục Thống kê, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và các ấn phẩm thống kê chính thức của Việt Nam như Niên giám thống kê các năm từ 2005 đến 2017, nhóm nghiên cứu có tham khảo và vận dụng một số nội dung từ các bài nghiên cứu liên quan đã được công bố trong nước và sử dụng phương pháp thống kê mô tả, phân tích so sánh trong nghiên cứu. Phương pháp so sánh sử dụng trong nghiên cứu nhằm so sánh tỷ lệ lượng LĐN tham gia lực lượng lao động Việt Nam qua các giai đoạn từ năm 2005 - 2017. Phương pháp thống kê mô tả được ứng dụng trong nghiên cứu nhằm mô tả được sự phân bổ lực lượng lao động theo giới tính, khu vực và trình độ chuyên môn qua các giai đoạn nghiên cứuThực trạng việc làm đối với lao động nữ ở Việt NamTheo Báo cáo điều tra lao động – việc làm của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ LĐN không có chuyên môn kỹ thuật và nữ công nhân kỹ thuật không có bằng cấp chiếm khoảng 80,8%, trong khi tỷ lệ này ở lao động nam chỉ ở mức 75,8%. Báo cáo cũng cho thấy, ngoại trừ sơ cấp nghề, tỷ lệ LĐN đã qua trung cấp nghề, cao đẳng nghề và đại học cao hơn hẳn so với nam. Điều này cho thấy, sự hạn chế về trình độ chuyên môn kỹ thuật đã không còn là những tác nhân quan trọng kìm hãm việc phát huy vai trò và tiềm năng của LĐN.Theo Bộ LĐTBXH, ở khu vực kinh tế chính thức, phụ nữ chỉ chiếm 40% số việc làm được trả lương và chiếm tỷ lệ thấp trong nhóm ngành nghề bậc cao (quản lý, chuyên môn kỹ thuật…), đồng thời chiếm tỷ lệ cao ở nhóm nghề bậc trung, nghề có kỹ năng thấp (trong nhóm người làm công việc không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, trên 50% là nữ). Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất trên thế giới. Kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê những năm gần đây cho thấy, phụ nữ Việt Nam chiếm khoảng 48% lực lượng lao động.Cơ chế thị trường và việc tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá đã đem lại nhiều cơ hội việc làm thuận lợi cho phụ nữ. Trước đây, người lao động muốn có việc làm chủ yếu là trông chờ ở các cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước hay hợp tác xã. Họ không đủ điều kiện và cũng rất khó khăn xin được phép tổ chức kinh doanh dưới dạng kinh tế hộ hay doanh nghiệp (DN) nhỏ. Ngày nay, với chính sách mở rộng các thành phần kinh tế, người lao động được khuyến khích tự tạo việc làm và đi tìm việc làm. Việt Nam là thành viên của các tổ chức như: Tổ chức Thương mại Thế giới, Cộng đồng kinh tế ASEAN… đã tạo ra những cơ hội việc làm mới cho LĐN. Trên thị trường lao động, tỷ lệ LĐN tham gia vào khu vực sản xuất ở loại hình DN ngoài Nhà nước và DN có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng nhanh.Các nghiên cứu đã cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp không ổn định trong những năm gần đây. Năm 2012, 2014, 2016 và 2017 tỷ lệ thất nghiệp trên toàn quốc tăng vọt ở cả nam giới và nữ giới. Do những khó khăn về kinh tế trong nước và diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới giai đoạn 2010 - 2017, cả nước có hơn 60.000 DN phải giải thể, phá sản, ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm của đội ngũ lao động đang có việc làm và lực lượng lao động bổ sung. Đây cũng là thời điểm khó khăn đối với LĐN trong việc tìm kiếm việc làm nên tỷ lệ thất nghiệp của nữ có sự chênh lệch đáng kể so với nam.Báo cáo điều tra lao động và việc làm hàng năm của Bộ LĐTBXH cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp chủ yếu tập trung vào thanh niên trong độ tuổi 15 - 24, là những người tham gia thị trường lao động sau khi tốt nghiệp và khó tìm kiếm việc làm hơn các thế hệ trước. Mặt khác, sau thời kỳ khủng hoảng, thất nghiệp, những thanh niên chưa tìm được việc làm đã tiếp tục tham gia vào việc học hành, học nghề để hy vọng kiếm được một công việc tốt hơn. Do thời gian học của họ bị kéo dài đây sẽ là lực lượng làm tăng thêm số lượng lao động chưa có việc làm. Trong bối cảnh khó khăn chung, LĐN bao giờ cũng phải chịu nhiều áp lực hơn nam giới trên thị trường lao động...