Chính sách y tế có vai trò hết sức quan trọng trong việc cải thiện chất lượng sức khỏe người dân. Tạo điều kiện, cho mọi tầng lớp nhân dân có điều kiện tiếp xúc với các dịch vụ y tế ngày càng dễ dàng, hiệu quả và công bằng. Vậy chính sách y tế là gì ? Các chính sách y tế hiện hành tại Việt Nam ra sao? Hãy cùng Top Kinh Doanh tìm hiểu chi tiết dưới đây:

Chính sách y tế là gì

Chính sách y tế là gì?

Khái niệm chính sách y tế là gì?

Chính sách y tế là các định hướng mang tính chiến lược trong việc chăm sóc sức khỏe của người dân từ Trung ương đến địa phương với mục tiêu đáp ưng nhu cầu về y tế một cách công bằng, có hiệu quả và đảm bảo phát triển xã hội bền vững.

Các chính sách y tế hiện hành ở Việt Nam

Các chính sách y tế hiện hành

Các chính sách y tế hiện hành

1. Chính sách y tế xã hội

Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) là một trong những giải pháp nhằm hỗ trợ các nhóm dân cư nghèo nhất trong xã hội thông qua hỗ trợ việc làm, hỗ trợ phát triển kinh tế, hỗ trợ kế hoạch hoá gia đình, cung cấp nước sạch và đảm bảo vệ sinh môi trường, hỗ trợ giáo dục đào tạo, bảo tồn văn hoá và hỗ trợ trong y tế. Nếu không có các chương trình này, những người dân nghèo, dân sống ở các vùng khó khăn, vùng núi và vùng sâu, vùng xa sẽ khó tránh khỏi tụt hậu so với các vùng khác.

Một trong những nguyên nhân dẫn tới đói nghèo phải kể đến là gánh nặng chi phí y tế của các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo và cận nghèo. Một lần nữa, khi sống trong nghèo đói người ta lại dễ bị ốm đau và bệnh tật thường nặng nề hơn. Như vậy tạo nên vòng xoắn của sự đói nghèo.Chính sách y tế và xã hội.

Mô hình bệnh tật kép, nghĩa là trong lúc các bệnh lây nhiễm vẫn đang chiếm tỷ lệ không nhỏ thì nguy cơ cũng như tỷ lệ hiện  mắc các bệnh không lây nhiễm lại khá cao.

Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của cộng đồng ngày càng tăng và đa dạng nhưng mức độ đáp ứng còn chậm không chỉ đối với khu vực kinh tế phát triển hơn mà còn ở cả các vùng nghèo, vùng khó khăn.

Chính sách y tế xã hội

Chính sách y tế xã hội

Sự mất công bằng trong tiếp cận, sử dụng dịch vụ y tế đang có xu hướng gia tăng.

Hiệu quả của đầu tư cho y tế còn hạn chế, nhiều mục tiêu đã đạt được theo tiến độ, nhiều mục tiêu chưa đạt.

Các cơ sở y tế được đầu tư chưa thật hợp lý và vẫn chậm chuyển đổi trong nền kinh tế thị trường.

Chất lượng dịch vụ còn hạn chế không chỉ do thiếu nguồn lực mà còn do quá trình hoạt động sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả.

Năng lực sản xuất, cung ứng, phân phối thuốc còn nhiều bất cập. Giá thuốc trên thị trường thường bất ổn định.

Người dân chưa thực sự tham gia để giải quyết các vấn đề tồn tại của chính cộng đồng mình. Nhiều chính sách chưa chuyển đổi kịp thời và thiếu sự cam kết một cách mạnh mẽ về tài chính.

2. Chính sách tài chính y tế

Viện phí

Chính sách thu một phần viện phí được Chính phủ ban hành từ năm 1989 trong bối cảnh hệ thống bệnh viện công không còn nhận toàn bộ kinh phí hoạt động như thời kỳ bao cấp trước đó.

Viện phí thực chất là thu để chi cho bệnh nhân. Thu để tăng chi cho người bệnh qua bổ sung chi phí cho các xét nghiệm, thủ thuật, giường bệnh, vật tư tiêu hao và nhất là mua thuốc, dịch truyền. Thu viện phí không nhằm tăng thu nhập cho cán Bộ Y tế. Mức thu hiện nay cho đa phần các dịch vụ chỉ bằnh 30% – 80% mức thực chi. Như vậy, thu viện phí để bù lại một phần các khoản chi phí mà ngân sách Nhà nước chưa cấp đủ cho các bệnh viện. Thu viện phí có tác dụng nâng cao chất lượng KCB tại bệnh viện. Cũng chính vì chỉ thu một phần chi phí thực tế nên dẫn tới tình trạng bao cấp cho tất cả những ai đến bệnh viện, đây là mặt trái của viện phí. Trong khi người giàu đến sử dụng bệnh viện nhiều hơn gấp 2-3 lần so với người nghèo, nhất là bệnh viện tỉnh và Trung ương, vô hình dung Chính phủ dành mức bao cấp nhiều hơn cho nhóm giàu trong cộng động. Từ đây, Chính phủ đã có quyết định cho phép điều chỉnh mức thu viện phí trên nguyên tắc thu đúng, thu đủ bù chi đối với nhóm giàu và miễn giảm viện phí cho nhóm nghèo.

Chính sách tài chính y tế

Chính sách tài chính y tế

Một điểm bất cập nữa của viện phí là tạo nên gánh nặng chi trả đáng kể đối với nhóm nghèo. Qua Điều tra y tế quốc gia (2001) cho thấy đối với nhóm nghèo nhất mức chi cho y tế bằng 22,8% chi cho lương thực thực phẩm và bằng 11,4% thu nhập, các tỷ lệ tương ứng với nhóm giàu nhất chỉ bằng một nửa, 10,9% và 6,4% tương ứng.

Do phải trả viện phí cũng như các chi phí khác khi có người nằm viện nhóm nghèo nhất rất khó đến được các cơ sở khám chữa bệnh có kỹ thuật cao. Chính vì vậy, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân được khởi xướng nhằm khai thác thế mạnh của bảo hiểm y tế – cơ chế trả trước và bao cấp chéo, chia sẻ rủi ro của nhóm có thu nhập cao cho nhóm có thu nhập thấp.

Bảo hiểm y tế

Bảo hiểm y tế (BHYT) được coi là một giải pháp quan trọng giảm bớt sự mất công bằng trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế. Bảo hiểm y tế dựa trên nguyên tắc sau:

  • Trả trước khi chưa ốm để được phục vụ khi ốm.
  • Người giàu hơn hỗ trợ người nghèo hơn do mức đóng tỷ lệ thuận với mức thu nhập cá nhân (người lao động đóng góp 1% thu nhập, người sử dụng lao động đóng 2% thu nhập của cá nhân). Người thu nhập càng cao càng phải đóng (bắt buộc) nhiều hơn, ngược lại với người có thu nhập thấp mức phải đóng ít hơn một cách tương đối.
  • Hưởng lợi đồng đều như nhau, tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh. Không phân biệt người đã đóng nhiều hay ít trước đó.

3. Chính sách liên quan đến khám chữa bệnh

Chính sách khám chữa bệnh

Chính sách khám chữa bệnh

Khám chữa bệnh cho người nghèo (Quyết định 139/2002/QĐ-TTg)

Năm 2002, Chính phủ ra Quyết định 139/2002/QĐ-TTg (QĐ-139) cho phép lấy ngân sách Nhà nước (từ Trung ương) để xây dựng Quỹ Khám chữa bệnh cho người nghèo. Trong đó các tỉnh tự quản lý quỹ này và sử dụng để mua thẻ BHYT hoặc thực hiện thực thanh thực chi cho người ốm khi phải đến bệnh viện. Quỹ này tăng hàng năm, không cho phép kết dư trong quỹ BHYT đối với các thẻ BHYT cấp cho người nghèo. Thực hiện QĐ-139 với sự tham gia của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (xác định hộ nghèo), UBND tỉnh (quản lý quỹ) và Bộ Y tế (cung cấp dịch vụ).

QĐ-139 đã làm tăng đáng kể chi phí cho người nghèo từ ngân sách Nhà nước. Đây là một quyết định hết sức đúng đắn nhằm giảm bớt sự mất công bằng trong tiếp cận với bệnh viện của người nghèo. Không những thế, nhiều địa phương tổ chức KCB cho người nghèo ngay tại trạm y tế xã (TYTX) càng làm cho mức hưởng lợi của đối tượng nghèo tăng thêm đáng kể, đặc biệt là tại vùng núi, vùng sâu, vùng xa nơi đi đến bệnh viện huyện khá xa.

Vấn đề còn lại cần giải quyết tốt QĐ-139 là làm thế nào kiểm soát được chất lượng KCB cho đối tượng hưởng lợi ở cả TYTX và các bệnh viện. Một số địa phương quy định mức trần và hạn chế danh mục thuốc cho BHYT ở xã, có thể chỉ nhằm giảm tình trạng lạm dụng thẻ BHYT, nhưng có thể vì thế mà gây phiền phức (phải bỏ tiền mua thêm thuốc ngoài danh mục) hoặc giảm chất lượng KCB (do hạn chế chi phí cho thuốc và xét nghiệm).

Trong QĐ.139, ngân sách Trung ương chỉ đảm bảo 75% mức quy định, 25% còn lại địa phương phải tự lo hoặc tìm nguồn viện trợ, vì vậy các tỉnh nghèo vẫn gặp khó khăn.

Thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi

Hiện nay, cả nước có khoảng 8,5 triệu trẻ em dưới 6 tuổi. Nhóm tuổi này có tỷ lệ ốm đau cao nhất (trung bình 1 tháng 50% bị ốm). Thực hiện Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, từ năm 1994 trong Nghị định 95/ CP đã có quy định miễn phí KCB cho trẻ em dưới 6 tuổi, nhưng do không có ngân sách bù vào khoản này nên thực tế rất ít trẻ em được miễn phí (khoảng 12%). Vì vậy, Quốc hội đã thông qua chính sách KCB miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi từ ngày 1/1/2005 (có nguồn ngân sách cấp bù cho các bệnh viện từ Trung ương khoảng 810 tỷ đồng). Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo các địa phương chuyển từ hình thức thực thanh thực chi sang mua BHYT cho trẻ em, như vậy sẽ tránh được những thủ tục rườm rà như xuất trình giấy khai sinh của trẻ,… tại các bệnh viện.

4. Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS

Chương trình mục tiêu quốc gia

Chương trình mục tiêu quốc gia

Thông qua các chương trình mục tiêu nguồn lực của Nhà nước tập trung vào các mục tiêu cơ bản với các dự án sau:

  • Phòng chống sốt rét;
  • Phòng chống lao;
  • Phòng chống sốt xuất huyết;
  • Phòng chống phong;
  • Phòng chống bướu cổ;
  • Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em;
  • Tiêm chủng mở rộng;
  • Đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm;
  • Phòng chống HIV/AIDS.

Tất cả các dự án trên đều có đối tượng ưu tiên là trẻ em và bà mẹ và cũng là cho các đối tượng nghèo. Có thể nói chương trình mục tiêu quốc gia là một công cụ rất hữu ích thực hiện chính sách công bằng xã hội.

5. Chính sách thuốc thiếu yếu

Một trong những mục tiêu của chính sách thuốc thiết yếu là sử dụng thuốc an toàn và hợp lý. Với cách phân 3 nhóm danh mục thuốc theo trình độ cán Bộ Y tế tại trạm, thuốc sẽ được sử dụng an toàn và hợp lý khi người ốm được thầy thuốc khám. Tuy nhiên, có tới xấp xỉ 50% số trường hợp ốm tại hộ gia đình đã tự đi mua thuốc về chữa mà không qua khám bệnh (Điều tra y tế quốc gia-2001). Tình trạng tự mua thuốc về chữa, trong đó có cả những thuốc ngoài danh mục những thuốc không cần kê đơn (OTC) đặt ra yêu cầu giáo dục kiến thức dùng thuốc tại nhà và đề xuất quy chế bán thuốc theo đơn nghiêm ngặt hơn. Hiện nay, rất nhiều hiệu thuốc bán thuốc không theo đơn, ai mua thuốc gì, mua bao nhiêu đều bán, cho dù có đưa ra một số lời dặn dò kể cả khi không biết mua thuốc có đúng bệnh hay không.

Chính sách thuốc thiết yếu

Chính sách thuốc thiết yếu

Do y tá (điều dưỡng viên) cũng kê thuốc tại TYT xã nếu không có y bác sỹ, chất lượng kê đơn cũng rất hạn chế. Trong một cuộc điều tra (Đ.V. Phan và cộng sự,1995) cho thấy có tới xấp xỉ 40% nhân viên TYT xã không nhận biết được thuốc có chứa Corticoides là một loại thuốc buộc phải kê đơn và sử dụng theo chỉ dẫn của y bác sỹ.

Thực hiện đường lối kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại, Bộ Y tế đã ban hành danh mục thuốc thiết yếu đối với y dược học cổ truyền. Danh mục này cũng nhằm vào việc tiêu chuẩn hoá những thuốc được sử dụng để chữa các bệnh có thể dùng y học cổ truyền ở tuyến xã theo phân tuyến kỹ thuật.

Bên cạnh đó, Bộ Y tế đã ra các chỉ thị nhằm củng cố hoạt động y học cổ truyền ở tuyến xã và từng hộ gia đình. Các quy định về ” tủ thuốc xanh”  đã hướng dẫn các cơ sở y tế vận động nhân dân sử dụng các cây con làm thuốc ngay trong vườn nhà. Đây là một đặc điểm khá độc đáo của Việt Nam, nhất là trong điều kiện lạm dụng thuốc tây y khá phổ biến như hiện nay, sử dụng thuốc y học cổ truyền và châm cứu bấm huyệt ở tuyến xã sẽ góp phần giảm bớt tác hại của việc sử dụng thuốc không an toàn, giảm nhẹ gánh nặng chi phí do sử dụng thuốc tân dược không hợp lý hiện nay.

Tóm lại về chính sách y tế là gì?

Chính sách y tế là các định hướng mang tính chiến lược trong việc chăm sóc sức khỏe của người dân từ Trung ương đến địa phương với mục tiêu đáp ưng nhu cầu về y tế một cách công bằng, có hiệu quả và đảm bảo phát triển xã hội bền vững. Việt Nam đang thực hiện các chính sách y tế gắn liền với xã hội, tài chính, hoạt động khám chữa bệnh chú trọng vào các đối tượng người có thu nhập thấp, người già và trẻ em.