hình ảnh

 Tranh Đông Hồ, một di sản văn hóa đặc trưng của Việt Nam, không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà còn là một bức tranh sống động về đời sống và tâm hồn của người dân Việt từ xa xưa. Từ những nét vẽ đơn giản nhưng sâu sắc, tranh Đông Hồ không chỉ thể hiện nét đẹp nghệ thuật mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa, lịch sử và triết lý sâu sắc về cuộc sống và tư duy của người Việt. Hãy cùng nhau khám phá và thưởng thức vẻ đẹp độc đáo của tranh dân gian Đông Hồ trong bài viết này.

1. Giới thiệu về làng tranh dân gian Đông Hồ

Làng Đông Hồ hay xưa còn được gọi là làng Mái thuộc tổng Hồ, huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc. Đến đời nhà Nguyễn, khoảng năm 1862, phủ Thuận An đổi thành phủ Thuận Thành, vùng đất Song Hồ thuộc phủ Thuận Thành; tháng 10 năm 1895, thực dân Pháp chia Kinh Bắc thành 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, vùng đất Song Hồ nằm trong tổng Đông Hồ, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Như vậy sau bao biến động của thời gian thì hiện nay làng Đông Hồ là làng Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội khoảng 35km.

Nơi đây là cái nôi của dòng tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ. Tuy vậy, đến nay không ai khẳng định rõ nghề tranh của làng ra đời từ khi nào nhưng theo tương truyền và qua lời kể của các cụ cao tuổi làng Hồ, tại đình làng Hồ có một tấm bia dựng từ thời Mạc năm 1680, khắc hình hai con chuột giã gạo và hình ảnh con chuột rất giống với tạo hình bức tranh đám cưới chuột. Hiện nay những hình ảnh đó không còn nữa. Vậy nên người dân cho rằng dòng tranh Đông Hồ ra đời vào khoảng thế kỉ XVI.

Giai đoạn từ nửa cuối thế kỉ XIX đến gần cách mạnh tháng Tám - năm 1945, với 17 dòng họ trong làng đều làm tranh, có thể nói đây là thời kỳ cực thịnh của làng tranh. Từ năm 1985 - 1990, do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu chơi tranh của người dân thay đổi, người trong nước không còn mặn mà với thú vui treo tranh ngày Tết nữa, thị trường đầu ra gặp khó khăn, người dân chuyển dần sang làm hàng mã. Nghề làm mã hiện nay phát triển mạnh cả về số lượng và chủng loại. Hầu như những người làm tranh trước kia nay đều chuyển sang làm nghề mã.

Sự tồn tại của nghề làm tranh hiện nay chỉ còn dựa vào một vài nghệ nhân như gia đình ông Nguyễn Hữu Sam, gia đình ông Nguyễn Đăng Chế,...Trong nỗ lực lưu truyền dòng tranh truyền thống, ông Chế đã vận động con cháu và xây dựng “Trung tâm giao lưu văn hóa dân gian tranh Đông Hồ”, nơi đây tạo một không gian văn hóa độc đáo, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.


Trung tâm giao lưu văn hóa dân gian tranh Đông Hồ do nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế sáng lập

Đặc biệt vừa đầu năm nay vào ngày 24/2, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tổ chức khai trương Nhà Trưng bày Di sản Văn hóa nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, tại thôn Đông Khê, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành. Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ với kiến trúc đậm nét của vùng quê Bắc Bộ hòa quyện với di tích đình tranh tạo không gian cảnh quan đặc trưng của vùng quê Bắc Ninh.

Thời gian tới, tỉnh Bắc Ninh lập kế hoạch đưa khu trung tâm Đông Hồ trở thành điểm đến du lịch kết nối tinh hoa di sản tới du khách trong và ngoài nước. Trong số đó, chú trọng đến việc quảng bá tranh dân gian Đông Hồ; lập hồ sơ trình UNESCO đưa tranh dân gian Đông Hồ là Di sản Văn hóa Phi vật thể của Nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp và xây dựng Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ.

Gửi hồ sơ quốc gia Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ tới UNESCO


Các đại biểu tham quan tại Nhà trưng bày di sản văn hóa nghề làm tranh dân gian Đồng Hồ

2. Giá trị tiêu biểu của tranh dân gian Đông Hồ

Một là Đây là dòng tranh có lịch sử phát triển rất lâu đời. Theo các nguồn lịch sử và các công trình nghiên cứu, tranh dân gian xuất hiện ở làng Đông Hồ từ thế kỷ 20. Gia phả dòng họ Nguyễn Đăng cho biết họ đã tu tập ở đây được 500 đời, tức là khoảng 17 năm. Cho đến Cách mạng Tháng Tám, làng có XNUMX gia đình, đều làm tranh, có nhiều nghệ nhân giỏi nổi tiếng khắp vùng.

Hai là, tranh dân gian Đông Hồ đáp ứng nhiều chức năng xã hội khác nhau, từ tín ngưỡng, tâm linh, lịch sử đến giáo dục, phản ánh phong tục, tập quán, cuộc sống đời thường... Chẳng hạn, tranh thờ đáp ứng nhu cầu tâm linh (Ngũ hổ, Bạch hổ, Thập quyền, Quán Thế Âm, Phật Tổ...); hình chúc mừng đáp ứng nhu cầu hướng tới sự may mắn, tốt lành (Đại Cát, Vinh Hòa, Phú Quý, Dân Gà, Dân Lợn...); bức tranh đời thường phản ánh những phong tục, tập quán, lễ hội, cuộc sống đời thường của người dân (Đấu vật, Hái dừa, Ghen tuông, Đám cưới chuột, Cóc dạy...); ...

Ba là, tranh Đông Hồ chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Trước hết, đó là những ước mơ, khát vọng từ những điều bình dị, giản dị nhất đến những điều thiêng liêng, cao quý nhất, như cầu mong mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đến ý niệm về trái nho. giảng dạy về đạo đức, lẽ sống ở đời.

Tranh Đông Hồ rất chú trọng giáo dục truyền thống văn hóa, tinh thần thượng võ, ý chí kiên cường của cha ông trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Tranh Đông Hồ còn đề cao truyền thống hiếu học, kính trọng thầy giáo, tôn vinh những danh nhân của văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, tranh dân gian Đông Hồ có tính giáo dục sâu sắc, luôn bài trừ những thói hư tật xấu, đề cao giá trị nhân văn, lên án giai cấp thống trị hay giặc ngoại xâm.

Bốn là tranh dân gian Đông Hồ có giá trị nghệ thuật độc đáo với cách thể hiện đậm chất dân gian. Những bức tranh toát lên nét thẩm mỹ và quan niệm nghệ thuật giản dị của các nghệ nhân dân gian. Đó là nghệ thuật miêu tả không gian một cách quy ước và tượng trưng, ​​không cần tuân theo quy luật xa - gần, tối - sáng như trong nghệ thuật hiện đại. Đường nét trong tranh Đông Hồ có xu hướng đơn giản, đậm nét nhưng cô đọng, khỏe khoắn, thiên về cách điệu, trang trí hơn là hiện thực. Đó chính là điều khiến bức tranh này trở nên đặc biệt.

Năm là tranh Đông Hồ có kỹ thuật xử lý độc đáo, đó là tranh khắc gỗ (hoặc in mộc bản). Tranh được in bằng ván chạm khắc thủ công, theo kiểu ván chứ không ngửa mặt như một số tranh dân gian ở các nước khác.

3. Quy trình làm tranh dân gian Đông Hồ như thế nào?

Quá trình sản xuất tranh có nhiều khâu, song có thể tạm chia thành 2 công đoạn chính như sau: khâu sáng tác mẫu/khắc ván và khâu in/vẽ tranh.

3.1. Khâu sáng tác mẫu/khắc ván

Sáng tác mẫu tranh và khắc ván là khâu lao động sáng tạo, khâu quan trọng, quyết định sự sinh tồn của một làng tranh. Nó đòi hỏi ít nhiều năng khiếu bẩm sinh và kỹ năng lao động cao ở các nghệ nhân. Công việc sáng tác mẫu tranh tốn rất nhiều thời gian, trước tiên phải lựa chọn đề tài, ý nghĩa, nội dung sâu sắc, màu sắc hài hoà, bố cục chặt chẽ và có giá trị nghệ thuật cao.

Khi sáng tác mẫu tranh, các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho để vẽ lên giấy bản mỏng và phẳng để người thợ khắc, đục ván theo mẫu. Việc sáng tác mẫu tranh không phải là việc của riêng các nghệ nhân mà thường là kết quả chung của một làng tranh, của nhiều thế hệ. Cũng chính vì thế mà trong tranh Đông Hồ, có trường hợp một mẫu nhưng có nhiều dị bản khác nhau, hoặc một mẫu tranh cũng có đến hai, ba cách phân bố màu khác nhau. Vì vậy, có nhiều mẫu tranh cổ đến nay chúng ta cũng chưa xác định được chủ nhân sáng tạo.


Người làm tranh dân gian Đông Hồ đục ván khắc gỗ để in tranh

3.2. Khâu in/vẽ tranh

Ván khắc in tranh có 2 loại: ván in nét và ván in màu. Ván in nét thường được làm từ gỗ thị hoặc gỗ thừng mực. Gỗ thị có thớ đa chiều, vừa mềm, dễ khắc lại vừa dai, do đó khi khắc ván in, nghệ nhân có kỹ năng chạm khắc giỏi, sẽ tạo được các nét gọn, mảnh, nhỏ, tinh vi và ván in lại mềm. Dụng cụ khắc ván là những mũi đục hay còn gọi là bộ ve, được làm bằng thép cứng. Mỗi bộ ve có khoảng 30 - 40 chiếc.

Vật liệu và dụng cụ dùng để in tranh gồm: giấy dó, các loại màu, ván in, co ván, bìa và thét (chổi làm bằng lá thông). Cách thức in tranh như sau: trước khi in tranh, phải chuẩn bị sẵn giấy in để thành 1 tập (khoảng từ 100 đến 200 tờ ở trước mặt). Khi in, người ta nhúng thét lá thông vào chậu màu để lấy màu, rồi quét đều trên mặt bìa.


Khâu in tranh từ ván gỗ sang giấy điệp

Phương pháp in tranh Đông Hồ theo cách cầm "co" ván dập đi, dập lại tấm ván xuống mặt bìa đã được phết màu. Màu thấm đều trên bề mặt ván, sau đó đặt ván in lên tờ giấy định in sao cho cân đối, ấn mạnh ván in vào tờ giấy, rồi lật ngửa ván in có dính cả tờ giấy in tranh lên; lấy xơ mướp xoa đều lên mặt sau tờ giấy, để cho phẩm mầu trên mặt ván tiếp tục thấm đều trên mặt giấy. Tranh được mang ra phơi ở những nơi thoáng mát và đợi khô rồi mới tiếp tục in màu khác. Bản nét đen bao giờ cũng được in cuối cùng.

4. Chất liệu làm tranh Đông Hồ

4.1. Bản in khắc gỗ

Có thể nói bản in khắc gỗ là linh hồn của mỗi bức tranh. Để có những bức khắc gỗ tỉ mỉ, uyển chuyển thì gỗ thường được sử dụng ở đây là gỗ từ cây táo vàng - loại gỗ mềm, thờ đa chiều, đủ dai để điêu khắc. Người nghệ sĩ có thể dùng bút chì vẽ những đường nét cơ bản trên bản gỗ hoặc giấy mỏng sau đó điêu khắc từng đường nét để có hình dáng chuẩn.


Để làm ra được bức tranh “Vinh hoa” cần tới 5 bản khắc gỗ để phối các lớp màu khác nhau

4.2. Giấy vẽ tranh Đông Hồ

Giấy tranh Đông Hồ là giấy điệp (giấy vỏ sò), được làm từ loại giấy gió truyền thống và độc đáo của Việt Nam (Giấy Gió). Cây Gió được trồng phổ biến ở các vùng miền núi ở Việt Nam

Để tạo ra giấy điệp, người sản xuất sử dụng vỏ sò điệp, nghiền nát, trộn với chất lỏng làm từ bột gạo nếp, gạo tẻ hoặc bột sắn. Sau đó, người nghệ nhân dùng chổi làm từ lá thông quét lên tờ giấy, từ đó tạo ra tờ giấy trắng sáng, lấp lánh khi để dưới ánh trăng.


Chất liệu giấy để làm nên tranh Đông Hồ

4.3. Màu sắc được sử dụng để vẽ tranh

Đúng như chất " dân gian" của dòng tranh, nguyên liệu để làm màu sắc đều từ tự nhiên và số lượng màu sắc có hạn.

Màu sắc được làm từ thực vật. Đó là màu đen của than củi, màu xanh của rỉ sét hay lá chàm, màu vàng của hoa và màu đỏ của gỗ. Từ 4 màu này người nghệ sĩ có thể biến hóa để tạo ra nhiều màu sắc đạm nhạt đa dạng. Các họa sĩ thường chỉ sử dụng 4 màu chủ đạo Nguyên liệu để làm 4 màu chính trong vẽ tranh

Để hoàn thành một bức tranh, người nghệ nhân phải rất cẩn thận và tỉ mỉ. Khi in màu lên giấy, mỗi màu sẽ được in riêng biệt. Nếu có 5 màu thì người thợ sẽ phải in 5 lần. Sau khi in, giấy cần được sấy khô lại. Từng lớp một, bức tranh hoàn thiện sẽ trở nên đầy màu sắc và đẹp mắt.

5. Ý nghĩa tranh Đông Hồ nổi tiếng

Tranh Đông Hồ truyền thống có 7 loại được chia theo nội dung, đó là: tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật, tranh phản ánh sinh hoạt.

Có thể tham khảo thêm các mẫu tranh dân gian Đông Hồ nổi bật khác tại: 10 mẫu tranh Đông Hồ ý nghĩa

"Lợn âm dương", bức tranh có biểu cảm rất mạnh mẽ nhưng cũng rất mềm mại. Trên mỗi con lơn đều có những vòng tròn âm dương, nói lên ước muốn của con người đó là sự hòa hợp giữa đất- trời, con người - động vật - thiên nhiên. Khát vọng về sự dồi dào và sinh sôi nảy nở của sự sống cũng như đàn lợn đông đúc. Tóm lại, bức tranh mạng lại niềm hạnh phúc, sung túc một gia đình hạnh phúc, hòa thuận.

Bức tranh "Lợn âm dương"

"Chim công thiên hạ thái bình", hình ảnh chim công mang ý nghĩa biểu tượng của tình yêu đôi lứa và tình cảm vợ chồng bền chặt mà son sắt thuỷ chung. Bên cạnh đó, bộ lông chim Công còn có nhiều hoa văn trông giống như các đồng tiền nối liền nhau, khiến nó trở nên lấp lánh và nổi bật hơn khi ánh nắng mặt trời chiếu vào. Điều này khiến cho treo tranh chim Công theo phong thủy còn được xem như biểu trưng của tài lộc và mang đến tác dụng điều hoà cân bằng âm dương.

Chữ đề "Thiên hạ thái bình" mang ý nghĩa xua đuổi ma quỷ, cầu mong sung túc và an bình trong cuộc sống. Vì vậy, nó rất thích hợp treo trong ngày Tết, dịp đầu năm mới để mong một năm an lành, bình ăn và cuộc sống hạnh phúc. Bên cạnh đó, bức tranh còn thuộc dòng tranh Tết chúc tụng "Thiên hạ thái bình" với ngụ ý cầu mong cho đất nước thịnh vượng, thái bình và ấm no.


Bức tranh "Chim công thiên hạ thái bình"

Bức tranh "Lý Ngũ Vọng Nguyệt" (Cá chép ngắm trăng)thể hiện khát vọng thành đạt trong học tập, danh vọng và sự nghiệp. Ước muốn từ hình tượng cá chép xuất phát từ niềm tin trong dân gian về việc cá chép vượt qua cổng trời hóa rộng, giôgns như một học sinh vượt khó để đạt được thành công.


Bức tranh "Cá chép ngắm tranh"

"Hứng dừa" không thể thiếu trong bộ sưu tập tranh dân gian Đông Hồ nổi bật. Vẻ đẹp giản dị nhưng nhẹ nhàng, hàm chưa ý nghĩa gia đình đoàn tụ, hòa thuận, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.


Bức tranh " Hứng dừa"

Kể đến top những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng thì không thể không nhắc đến "Đám cưới chuột". Bức tranh này chỉ trích sâu cay, phản đối tham nhũng, mua quan bán chức và nạn tham ô trong chính quyền phong kiến. Bức tranh Đám cưới chuột là một tác phẩm mang ý nghĩa châm biếm chống lại những mặt trái trong chính quyền và xã hội hiện tại, và trong cuộc sống hiện đại ngày nay, bức tranh này vẫn giữ được giá trị nhân văn, hiện thực và tính ứng dụng cao.


Bức tranh " Đám cưới chuột"

Ngắm nhìn vào tranh Đông Hồ, chúng ta không chỉ nhận thức được sức hút từ nét vẽ đơn giản mà còn tìm thấy những giá trị văn hóa sâu sắc, mang lại cho chúng ta cơ hội để hiểu rõ hơn về tâm hồn, tư duy và tầm nhìn về cuộc sống của người Việt xưa. Trong đời sống đương đại, tranh dân gian Đông Hồ vẫn góp phần vào sự phát triển chung của nền mỹ thuật Việt Nam, cung cấp đề tài, mô típ, hình thức biểu đạt và nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nghệ sĩ. nghệ sĩ trẻ và nghệ sĩ.

Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi mạnh mẽ của điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, hiện nay, nghề tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ "tuyệt chủng" rất cao. Vì vậy, việc bảo vệ, bảo tồn và phát huy nghề tranh dân gian Đông Hồ như một di sản quý giá của văn hóa dân tộc là hết sức cấp bách.